Hướng dẫn Chứng minh rằng: Với bài thơ ông đồ Vũ Đình Liên đã chạm được vào những rung cảm tâm linh của giống nòi nên nó còn tha thiết mãi hay nhất ngữ văn lớp 8

Thơ là tiếng nói của tình cảm cảm xúc, một bài thơ hay phải là bài thơ đi từ trái tim của thi sĩ đến trái tim của bạn đọc. Nhà thơ phải là một nghệ sĩ tài hoa có khả năng điều khiển con chữ cho nó toát lên ý thức xâm nhập cả tâm hồn bạn đọc, chạm được đến tâm linh con người. Trong chương trình Ngữ Văn lớp 8 chúng ta được học một bài thơ vô cùng dư âm đó là bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên. Qua việc bày tỏ niềm xót thương đến một quá khứ của một nền văn học cổ truyền thống vàng son, Vũ Đình Liên đã sự thành công trong việc không chỉ chạm được đến tâm hồn bạn đọc mà còn chạm đến hồn cốt dân tộc. Vậy nên có ý kiến cho rằng “Với bài thơ ông đồ Vũ Đình Liên đã chạm được vào những rung cảm tâm linh của giống nòi nên nó còn tha thiết mãi”. Sau đây là bài làm văn mẫu cho đề bài này. Để làm bài tập này, chúng ta cần giới thiệu ý kiến trên, giới thiệu tác giả, tác phẩm và chứng mình ý kiến.

BÀI VĂN 1: CHỨNG MINH RẰNG, VỚI ÔNG ĐỒ, VŨ ĐÌNH LIÊN ĐÃ CHẠM ĐƯỢC VÀO NHỮNG RUNG CẢM TÂM LINH CỦA GIỐNG NÒI NÊN NÓ CÒN THA THIẾT MÃI.

Giá trị của một bài thơ không phải được quyết định bằng giá trị của nó ở hiện tại mà là em xét khả năng dư vang của nó đến quá khứ và tương lai. Một bài thơ có thể gom góp hết giá trị của một quá khứ huy hoàng và gửi nó đến tương lai thì là một bài thơ đáng được mãi in sâu trong lòng người. Và "với bài thơ ông đồ Vũ Đình Liên đã chạm được vào những rung cảm tâm linh của giống nòi nên nó còn tha thiết mãi".

Trước tiên, bài thơ “Ông đồ” đã chạm được vào những rung cảm tâm linh của giống nòi với cảm xúc luyến lưu xót xa cho những giá trị truyền thống dân tộc đang bị mai một:

Mỗi năm hoa đào nở

Lại thấy ông đồ già

Bày mực Tàu, giấy đỏ

Bên phố đông người qua

Nhấn để mở rộng...

Hoa đào là loài hoa biểu tượng cho mùa xuân ở miền Bắc. Hoa đào nở gợi nhắc ta về một không khí tết, một ngày đầu xuân mà mỗi năm đều có theo quy luật muôn đời của tạo hóa. Trong khung cảnh thiên nhiên ấy, ông đồ xuất hiện là biểu tượng của một phong tục truyền thống đó là tục cho chữ ngày tết. Vào mỗi dịp tết đến xuân về, mọi người đều có thói quen đi xin câu đối đỏ, chữ Nho viết trên giấy đỏ với mong ước về một năm mới bình an. Khi ấy, ông đồ là một nhân vật rất được trọng vọng:

Bao nhiêu người thuê viết

Tấm tắc ngợi khen tài:

“Hoa tay thảo những nét

Như phượng múa, rồng bay”

Nhấn để mở rộng...

Công việc của ông chính là công việc sáng tạo của một người nghệ sĩ, chữ mà ông viết ra được ví như là phượng múa rồng bay vừa đẹp, vừa cao quý. Viết những dòng này với giọng thơ giàu cảm hứng, ta có thể cảm nhận đươc tình cảm của nhà thơ đối với phong tục này. Nhưng chuyện ấy không giữ được mãi mãi:

Nhưng mỗi năm mỗi vắng

Người thuê viết nay đâu?

Giấy đỏ buồn không thắm

Mực đọng trong nghiên sầu...

Nhấn để mở rộng...

Đoạn thơ thứ ba giọng thơ chùng lại có lẽ đó là do tâm trạng của người người viết đang chùng lại. Câu hỏi tu từ “người thuê viết nay đâu như xoáy sâu vào lòng người đọc, câu nghi vấn của nhà thơ đâu chỉ đơn thuần là đang hỏi về những người thuê viết. Sự tấp nập của những người thuê viết chữ khi xưa chính là hiện thân của tình cảm của con người với một thời đại trọng đạo Nho truyền thống nói chung và những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc nói chung, nay đã vắng bóng, tức là con người đã không còn thiết tha với truyền thống dân tộc, liệu có phải là sự đau lòng ám chỉ về sự mai một của những giá trị văn hóa truyền thống ngày nào. Biện pháp nhân hóa “giấy đỏ buồn”- “mực sầu” đã cụ thể hóa nỗi sầu nơi con người, phải chăng, với từ “buồn”, từ “sầu”, nhà thơ như để người đọc cảm nhận được rằng, vì người đời đã thờ ơ nên giấy cũng “buồn” mà trở nên không còn tươi như trước, mực vì sầu mà cũng không buồn nhấc mình, cứ đọng lại trong nghiêng. Nỗi buồn của ông đồ hay là của nhà thơ đã thấu sang cảnh vật? Chữ cao quý là dùng để cho, vậy mà ông đồ phải bán chữ đã là dấu hiệu của sự suy đồi về giá trị văn hóa, ấy vậy mà thậm chí khi đem ra bán, cũng không còn ai mua, đó là một điều hết sức chua xót cho một nền văn hóa Nho học cổ truyền.

Ông đồ vẫn ngồi đấy

Qua đường không ai hay

Lá vàng rơi trên giấy

Ngoài trời mưa bụi bay

Nhấn để mở rộng...

Một ông đồ năm xưa được trọng vọng, được ngưỡng mộ là thế mà nay như một người bị gạt ra khỏi lề xã hội. Ông vẫn như năm nào, trung thành với cây bút “vẫn ngồi đấy” chỉ có điều rằng nhân tình đã đổi thay, không còn ai chú ý đến ông, sư tồn tại của ông không hề có dấu vết. Có lẽ nỗi buồn đã tới mức có chiếc lá vàng rơi trên trang giấy cũng không còn buồn nhặt, mà có lẽ đó là lá vàng của một mùa thu sắp tàn của thời đại Nho Học. Vào cái thời buổi gió Á mưa Âu tấp nập thổi vào mảnh đất quê hương, con người dường như để bản thân bị luồng gió độc ấy cuốn đi mà bỏ rơi những giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc khiến cho chúng ngày một tàn phai mai một, khi ấy cả hồn dân tộc nhuốm một màu buồn sầu lê thê như những đoạn mưa bụi không bao giờ dứt.

Năm nay đào lại nở

Không thấy ông đồ xưa

Những người muôn năm cũ

Hồn ở đâu bây giờ?

Nhấn để mở rộng...

Câu hỏi “Hồn ở đâu bây giờ” cứ vậy mà văng vẳng trong tâm thức người đọc. Câu hỏi như chứa cả sự đau đớn của tác giả khi nhìn thấy sự đổi thay của lòng người, sự mai một dần của các giá trị văn hóa truyền thống đồng thời đó là lời chiêu hồn đất nước, gióng lên hồi chuông cảnh báo về sự một đi không trở lại của các giá trị truyền thống.

Bài thơ đã đặt ra một vấn đề muôn thủa đó là làm thế nào trước sự đổi thay của thời cuộc, ta vẫn giữ được tâm hồn dân tộc? Và câu hỏi ấy còn giá trị mãi về sau, nó chạm đến tâm linh hồn cốt dân tộc và vì vậy, tác phẩm sẽ sống trong lòng người đọc mãi mãi.

"Ông đồ" sẽ còn mãi chỗ đứng trong lòng độc giả và trong cả nền văn học nước nhà bây giờ và mãi mãi về sau.

BÀI VĂN 2: CHỨNG MINH RẰNG, VỚI ÔNG ĐỒ, VŨ ĐÌNH LIÊN ĐÃ CHẠM ĐƯỢC VÀO NHỮNG RUNG CẢM TÂM LINH CỦA GIỐNG NÒI NÊN NÓ CÒN THA THIẾT MÃI

Pôn-ê-luya từng nói: thơ ca phải đi từ chân trời của một người đến chân trời của muôn người. đúng như vậy, một tác phẩm chân chính phải vượt qua mọi bờ cõi, và giới hạn, nó chạm được vào những rung cảm sâu xa nhất của tâm hồn con người-mẫu số chung của giống nòi, như thế mới mông làm bạn với ocn người cho đến ngày tận thế, mới mong còn tha thiết mãi trong lòng bạn đọc. Và, với bài thơ “Ông đồ” Vũ Đình Liên đã chạm được vào những rung cảm tâm linh của giống nòi nên nó còn tha thiết mãi.

Vũ Đình Liên viết Ông Đồ trong giai đoạn thơ Mới, chính điều này đã chi phối một nét trong giọng điệu và cảm hứng nghệ thuật của ông, đó là cái đẹp bao giờ cũng buồn. Buồn thương, đó là điệu cảm xúc chủ đạo của các thi sĩ thơ Mới. do bất hào, bất lực, bất mãn với thực tại dân tộc, họ trốn tránh và không tìm được lối thoát nên mất sợi dây liên kết với cuộc đời, do vậy luôn trong tâm trạng bơ vơ bế tắc. Mỗi thi sĩ tìm một cách thoát ly riêng. Nếu Xuân Diệu trốn vào tình yêu, Thế Lữ thoát lên tiên, Lưu Trọng Lư mơ màng trong cõi mộng, Huy Cận tìm cái xa trong không gian thì đây, Vũ Đình Liên tìm cái xưa trong thời gian, đó là vẻ đẹp của một thời vang bóng, vẻ đẹp của một nét đẹp văn hóa cổ truyền dân tộc: chữ Nho.

Việc mở cửa, giao lưu, đồng thời do hoàn cảnh đất nước mà chữ Nho không còn ưu thời như trước kia. Nếu xưa kia ông Đồ:

Bao nhiêu người thuê viết

Tấm tắc ngợi khen tài

Hoa tay thảo những nét

Như phượng múa rồng bay”.

Thì nay, thời thế đổi thay, ông Đồ chỉ còn là cái di tích tiều tụy đang thương của một thời tàn.

Nhưng mỗi năm mỗi vắng

Người thuê viết nay đâu?

Giấy đỏ buồn không thắm

Mực đọng trong nghiên sầu...

Ông đồ vẫn ngồi đấy

Qua đường không ai hay

Lá vàng rơi trên giấy

Ngoài giời mưa bụi bay.

Nhấn để mở rộng...

Ông đồ rơi vào tình cảnh một nghệ sĩ hết công chúng, một cô gái hết nhan sắc. Còn duyên kể đón người đưa, Hết duyên đi sớm về trưa một mình. Ông đồ vẫn ngồi đấy mà không ai hay. Ông Đồ giữa dòng đời vội vã của những con người hiện đại chỉ như một ốc đảo trơ trọi, cô đơn lạnh giá. Cái hiện thực ngoài đời là thế và chỉ có thế, nó là sự ế hàng. Nhưng ở thơ, cùng với cái hiện thực ấy còn là nỗi lòng tác giả nên giấy đỏ như nhạt đi và nghiên mực hóa sầu tủi. Biện pháp nhân hóa được sử dụng rất đắt đã khiến những vật dụng vô tri như mang nặng một linh hồn, như càng thêm ám ảnh trong tâm trí người đọc. Hay nhất là cộng hưởng vào nỗi sầu thảm này là cảnh mưa phùn gió bấc. Là mưa của đất trời giăng giăng hay là nỗi giá rét và buốt lặng trong tâm hồn con người. không biết nữa, chỉ biết rằng có một di tích tiều tụy đáng thương ngồi đấy, trong dáng ngồi bất động, giữa làn mưa bụi bay. Mùa xuân lại có lá vàng, quả là một sự đối nghịch, nhưng cái nghịch lí để lí giải sự có lí của tình cảm:

“cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bào giờ?”.

Để rồi vọng lên một lời xót xa đến quặn thắt đáy lòng;

Năm nay đào lại nở

Không thấy ông đồ xưa

Những người muôn năm cũ

Hồn ở đâu bây giờ?

Nhấn để mở rộng...

Ông đồ đã bị hất tung ra khỏi ngoài rìa xa hội, một mình ôm bút nghiên giấy mực lặng lẽ về với mảnh đất của mình. Ông đã cố bám lấy xã hội hiện đại, lũ người hiện đại chúng ta đã nhìn thấy sự cố sức của ông, đã thấy ông chới với, nhưng chúng ta đã không làm gì, để đến bây giờ quay nhìn lại, mới biết ông đã bị buông rơi tự bao giờ. Bóng dáng ông đâu phải bóng dáng của một người, của một nghề, mà là dáng của cả một thời đại, bóng dáng kí ức của chính tâm hồn chúng ta. Đến bây giờ chúng ta mới thấy luyến tiếc, nhưng quá muộn rồi. Hỏi trời, hỏi đất, hỏi người, hỏi cả một xã hội. rằng thế hệ chúng ta đã làm gì với một nét đẹp văn hóa của dân tộc, đã cuốn phăng đi có lẽ nào là cả chính mình trong xã hội nhỡn tiền. hôm nay ngoảnh đầu nhìn lại, thảng thốt bỗng nhớ cái gọi là “ngày xưa”. Hỏi hay khấn khứa tưởng niệm, hay ân hận sám hối. đó đâu chỉ là câu hỏi, mà là lời day dứt, là tiếng nấc nghẹn của nhà thơ khi chứng kiến cảnh tượng ấy của văn hóa dân tộc. Hai câu thơ hàm súc nhất của bài, chúng ta đọc ở đấy số phận của ông đồ và nhất là đọc được thái độ, tình cảm của cả một lớp người đối với những gì thuộc về dân tộc, về ngữ pháp câu thơ này rất lạ, nhưng không ai thấy cộm: Những người muôn năm cũ. Muôn năm, thật ra chỉ là vài ba năm, nhưng nói muôn năm mới đúng, thời ông đồ đã xa lắc rồi, đã lẫn vào với những bút, những nghiên rất xa trong lịch sử. Chữ muôn năm cũ của câu trên dội xuống chữ bây giờ của câu dưới càng gợi bâng khuâng luyến nhớ.

Rõ ràng, trong xã hội kim tiền, nhờ một cơn gió lạ từ phương xa thổi tới đã hất tung những gì bấy lâu nay thời đại ta có, mà không tránh khỏi sự hào nhập mà không hòa tan. Không cầm súng đấu tranh trên mặt trận chính trị, nhưng trên mặt trận tư tưởng, ông Đồ của Vũ Đình Liên đã kín đáo bày tỏ một tấm lòng yêu nước thầm kín, đó là sự xót xa cho việc đánh mất những nét bản sắc, văn hóa truyền thống của dân tộc, kêu gọi và thức tỉnh mọi người hãy quy trở về với con người của ta một thuở. Như thế, vấn đề bản sắc đã chạm được vào những rung động tâm linh của giống nòi. Bởi đó là vấn đề muôn thuở. Qua đó, kín đáo bày tỏ một trái tim yêu nước, một ruột thơ đau đời không tránh khỏi bế tắc, bi quan. Nhưng trên tất cả, với bài thơ “Ông đồ” Vũ Đình Liên đã chạm được vào những rung cảm tâm linh của giống nòi nên nó còn tha thiết mãi.