- Đông phương học được xem là môn nghiên cứu khách quan, vô tư nhưng thực ra được sử dụng cho các mục đích chính trị. Những nhà đông phương học cung cấp phương tiện cho nhà cầm quyền Châu Âu sử dụng để chiếm đoạt đất đai và thống trị Đông phương về đủ mọi mặt. “Nhà cầm quyền thuộc địa được xác định trước bởi đông phương học hơn là bởi sự kiện diễn ra sau đó”[7]. Người Tây phương quan sát Đông phương từ trên và từ ngoài. Vị trí sai lầm này che dấu sự thay đổi các đặc điểm lịch sử, che dấu quyền lợi của những nhà đông phương học. Trong suốt giai đoạn thịnh vượng của thế kỷ 19, Đông phương học sản xuất ra vô số học giả. Theo đó, số lượng ngoại ngữ dạy ở các trường học phương Tây và số lượng bản thảo được biên soạn, phiên dịch và phê phán càng ngày càng tăng. Ngôn ngữ và thi ca được quan tâm đặc biệt. “Rõ ràng là Đông phương học quan trọng hơn chính Đông phương”[8]. Những học giả của thế kỷ 19 đã phiên dịch những văn bản của “đông phương” thành Anh văn, căn cứ trên giả thiết rằng một sự chiếm đoạt thuộc địa có hiệu quả đòi hỏi kiến thức về những dân tộc bị chinh phục. Đông phương trở thành đối tượng khảo sát. Những nhà đông phương học là những người quan sát. Họ là chủ thể. Nói khác đi, Đông phương thì thụ động, Tây phương thì chủ động. Biết rõ đông phương để sỡ hữu đông phương, đó là thực chất của “đông phương học”.
- Đông phương học giúp người Âu Châu định nghĩa chính họ. Bởi vì “sự phát triển và duy trì mỗi một nền văn hóa đòi hỏi sự hiện hữu của một nền văn hóa khác, một thứ alter ego. Đông phương học giúp người phương Tây xác định rằng văn hóa Đông phương nói chung và Hồi giáo nói riêng là không thay đổi, là yếu kém, hạ đẳng, lạc hậu, hư hỏng và từ đó, chứng minh rằng văn hóa Tây phương là tốt đẹp, cao cả, ưu thế. “Đông phương học giả thiết một Đông phương tuyệt đối khác với Tây phương”[9]. Người đông phương là nguyên mẫu (prototypical), nghĩa là mãi mãi cứ như thế, không bao giờ thay đổi. Hình ảnh về Đông phương chẳng khác gì hình ảnh của những nhân vật trong các vở kịch châm biếm của Theophrastus hay của La Bruyère: người nào cũng khoác lác, keo kiệt, háu ăn…Từ đó khai sinh ra chủ nghĩa thuộc địa, chủ nghĩa đế quốc được ngụy trang dưới chiêu bài khai hóa thuộc địa.
- Đông phương học sản xuất ra một hình ảnh sai lầm về Đông phương, đặc biệt về Hồi giáo và Á Rập. Đông phương được diễn tả như là một thế giới tách khỏi giòng mạch chính của nhân loại tiến bộ về khoa học, thương mại, nghệ thuật, vân vân.
- Said vạch ra một cái nhìn về lịch sử, trong đó quyền lực văn hóa, mà ông gọi là thứ quyền lực để định nghĩa những kẻ khác[10]gắn với quyền lực để chinh phục. Cái nhìn của phương Tây về phương Đông là cái nhìn về một thứ gì hư hỏng, xấu xa, lười biếng, lạc hậu và đầy nhục cảm. Phương Tây tạo ra ý niệm về phương Đông để tăng cường quyền lực của chủ nghĩa thuộc địa trên những người thuộc địa. Said cho rằng không có một tri thức khách quan và trung lập về Á Châu và đặc biệt về thế giới Á Rập. Công trình nghiên cứu của các học giả phương Tây về phương Đông, bị giới hạn trong những thiên kiến rất có hệ thống về cái thế giới không-phải-phương-Tây này (non-Western world). Chúng trở thành một nhúm định nghĩa đầy những lời sáo rỗng. Theo Said, kể từ thời Ánh Sáng, mỗi một người châu Âu, trong cái mà họ nói về Đông phương, đều là một kẻ phân biệt chủng tộc, một tên đế quốc. Quan điểm của họ hoàn toàn có tính cách hướng chủng (ethnocentric). Ông quả quyết rằng chính “Đông phương học” là chủ đề cho các “isms” nổi tiếng ở Tây phương như imperialism, positivism, utopianism, historicism, Darwinism, racism, Freudianism, Marxism, vân vân[11]. Đó chỉ là những lý thuyết suông, chỉ mang thêm rối rắm chứ chẳng có ích lợi gì.
Trong Culture and Imperialism (1993), Said đào sâu và khai triển thêm về đông phương học trong nhiều lãnh vực khác nhau, đặc biệt là trong các truyện dài, thơ ca, diễn văn và các sản phẩm truyền thông. Ông vạch trần một cách không thương tiếc tinh thần đế quốc ẩn nấp đàng sau tác phẩm của các nhà văn, nhà thơ – kể cả những nhà văn nhà thơ nổi tiếng là đầy tinh thần nhân bản. Trong thế kỷ 19 và 20, những nhà văn châu Âu, ngay cả những người phi chính trị như Jane Austen, cũng cung cấp tính cách hợp pháp cho chủ nghĩa thuộc địa. Forster, Joseph Conrad, Rudyard Kipling… viết văn không phải là nêu lên vấn đề để giải quyết mà là để duy trì thực trạng đế quốc. Albert Camus, nhà văn đoạt giải Nobel và được ngưỡng mộ trên toàn thế giới chẳng hạn, cũng không thoát khỏi con mắt soi bói của Said. Trong một bài viết về nhà văn này có tựa đề Albert Camus, ou l’inconscient colonial, được tờ tạp chí nổi tiếng Pháp “Le Monde diplomatique”[12] trích đăng từ tác phẩm nói trên, Said phân tích khá tỉ mỉ tinh thần thuộc địa chứa đựng trong các tác phẩm vốn được xem là rất nhân bản của Camus. Theo Said, “Camus là một con người đạo đức trong một thế giới vô đạo đức”[13]. Nếu đối chiếu những quả quyết và những tiên đoán của Camus về lịch sử của nước Algérie thuộc địa với lịch sử do những người Algérie viết ra sau khi giành được độc lập, Said tìm thấy đầy đủ sự mâu thuẫn giữa chủ nghĩa quốc gia Algérie và chủ nghĩa thuộc địa Pháp. Có thể bản thân Camus không hề muốn đề cao tinh thần thuộc địa, nhưng tinh thần đó xuất hiện trong các tác phẩm L’Etranger, La Peste và La Chute một cách vô thức. Said nêu lên vài chi tiết nhỏ: trong L’Étranger, Meursault giết một người Á Rập, nhưng người Á Rập này không hề có tên, không lý lịch; trong La Peste, có những người Á Rập chết vì dịch hạch, nhưng họ cũng chẳng hề có tên. Điều đó cho thấy có một thái độ đối xử khác biệt giữa người Pháp và dân thuộc địa. “Tôi muốn nhấn mạnh rằng người ta tìm thấy trong những tiểu thuyết của Camus điều mà người ta tưởng chừng như đã qua đi từ lâu rồi: những ảo tưởng về cuộc chinh phục thuộc địa của Pháp, bắt đầu từ năm 1830, tiếp tục trong khi Camus còn sống và được phóng rọi trong các văn bản của ông”. Said không ngần ngại quả quyết “Những tiểu thuyết và truyện ngắn của Camus cô đọng một cách rất rõ ràng những truyền thống, ngôn ngữ và chiến lược tinh vi nhằm chiếm hữu nước Algérie”.
Tóm lại, Said viết Orientalism để bác bỏ Orientalism. Tại sao? Bác bỏ Đông phương học, là bác bỏ một sự khái quát hóa về sinh vật học, về ý nghĩa văn hóa và bác bỏ những thiên kiến chủng tộc và tôn giáo. Nó cũng bác bỏ sự tham lam chiếm đoạt vốn là động cơ thúc đẩy đầu tiên của các công trình nghiên cứu tri thức. Đông phương không thể được nghiên cứu theo cách thức “phi-Đông phương”[14]. Đông phương phải được nhìn ngắm và nghiên cứu bằng một cái nhìn toàn diện, trong đó ranh giới giữa Đông và Tây phải bị xóa nhòa, theo Said. Đối với người phương Tây, Said được xem là một người giúp mở mắt (eye opener), cho phép họ nhìn thấy những mâu thuẫn trong nền văn hóa của họ và những ảo tưởng mà họ tạo ra về The Other. Noam Chomsky nhận xét: “Các công trình nghiên cứu kinh điển của ông dành hết để làm sáng tỏ những huyền thoại về chính chúng ta cũng như về cách diễn giải của chúng ta đối với những nền văn hóa khác, giúp chúng ta tái xét nhận thức của chúng ta về phần còn lại của thế giới và về chính chúng ta. Nhận biết chúng ta là gì là một công việc khó khăn; không có gì khó hơn là soi lại chính mình trong tấm gương”[15].
Tất nhiên không phải ai cũng như Chomsky. Các luận cứ của Said gặp nhiều phản bác. Những nhà chuyên môn nghiên cứu về Trung Đông, trong lúc không phủ nhận nhiều luận điểm của Said mới lạ và có giá trị, nhưng chỉ ra nhiều điều cho thấy một số các lời khẳng định của Said là có vẻ cường điệu, ngoa dụ và quá giản lược. Sử gia Anh J. H. Plumb viết trong “The Times”, cho rằng Said đã tạo ra rất nhiều thuật ngữ tuyệt vời và gây kích thích về mặt tri thức, nhưng đáng tiếc là Said đã không nghiên cứu sâu hơn về các tương quan lịch sử giữa Đông và Tây để tìm ra cái gì sai và cái gì đúng. Said đã sai lầm khi quả quyết rằng những nhà đông phương học sáng tạo ra phương Đông để thỏa mãn các đòi hỏi về sự trội hơn về mặt tri thức và văn hóa để thi hành chủ nghĩa đế quốc. Said không biết rằng rất nhiều những nghiên cứu về Đông phương đã phản ảnh rất trung thực về chính bản chất của Đông phương.
Một học giả khác, Keith Windschuttle cho rằng: mặc dầu Âu Châu, từ rất lâu, muốn tách hẳn khỏi các phần còn lại của thế giới, nó không cần phải nại đến các nền văn hóa khác để tự xác định chính căn cước của mình. Âu Châu vốn có gia tài riêng của nó là truyền thống văn hóa Hy Lạp và Thiên Chúa Giáo. Truyền thống đó được bổ sung, cải biến và nâng cao qua rất nhiều cao trào đặc biệt trong lịch sử như thời kỳ Phục Hưng hay thời kỳ Ánh sáng…. Những gì mà người Tây phương khám phá và tìm hiểu được trong quá khứ không chỉ giúp cho người Tây phương mà còn giúp cho người Đông phương tìm lại hình ảnh của chính mình trong quá khứ, điều mà bản thân họ không làm được. Hơn nữa, những hình ảnh mà người Tây phương tạo ra về Đông phương bây giờ chính người Đông phương có xu hướng phục hồi lại[16].
Đối với những người Á Rập và những người khác thuộc thế giới thứ ba, thì ông là người “tặng chữ” - a granter of words -, từ của Tamin al-Barghouti, nhà thơ Palestine. Họ không có chữ để nói. Ông đã nói hộ những gì nằm trong tim và trong óc họ từ hai thế kỷ nay. Said diễn tả chúng bằng chính ngôn ngữ của kẻ thù của họ và nói ngay trước mặt kẻ thù. Sự nghiệp của ông - nếu có thể nói là sự nghiệp - là phá hủy những hành ngôn thuộc địa nhằm lật tẩy sự phi lý trong những luận cứ cung cấp cho những kẻ gây chiến, thứ bình an tâm hồn mà họ cần.
Orientalism khiến một số trí thức Á Rập vui mừng, tất nhiên. Nhưng không lâu. Vì trong khi kết án Tây phương, Said cũng là người mạnh mẽ nhất lên án sự thất bại của chủ nghĩa quốc gia Á Rập, chủ nghĩa đã đưa đến nghèo đói, độc đoán và bè phái. Sau năm 1993, ông lên án hiệp ước Oslo, chê bai Arafat, cho rằng ông này là một “personage tragique”, một người phi dân chủ, không hề hỏi ý kiến của nhân dân. Sự phê phán gắt gao đến nỗi, có một thời gian các tác phẩm của Said bị cấm bán ngay ở tại Palestine. Ông cũng lên án giáo chủ Khomeini của Iran khi ông này kết án tử hình nhà văn Salman Rushdie, phê phán Saddam Hussein, chỉ trích lãnh tụ Khadafi của Lybia. Bởi thế, trong lúc được thế hệ trẻ và giới trí thức Á Rập mến mộ, Said vẫn bị các nhà cầm quyền tại những xứ sở “đông phương” - mà ông hết lòng bênh vực - dè chừng, nếu không muốn nói là chẳng mấy ưa.
Đúng là lưỡng đầu thọ địch.
“Là một người Palestine Tân giáo, ông cảm thấy lạc lõng trong xứ Ai Cập thời thuộc địa; như là một người Á Rập, ông là một kẻ ngoại cuộc khi sống ở Hoa Kỳ, và sau cuộc chiến tranh 1967 khi Israel chiếm đóng phần còn lại của Palestine, ông bắt đầu cảm thấy “nỗi lẻ loi của một kẻ chẳng có quê hương hay một nơi chốn nào khác để trở về”[17]
“Mặc dù thường được xem là một trong những người phê bình gay gắt nhất (các chính sách) của Hoa kỳ, điều mỉa mai là Said lại là người làm cho nước Mỹ hãnh diện, vì ông là tiêu biểu cho cái gì cao đẹp nhất của tinh thần Mỹ quốc bằng cách nâng cao biểu tượng của nó cho đến hơi thở cuối cùng. Điều quan trọng hơn hết là di sản của ông thuộc về toàn thế giới như là lý tưởng của (cái gọi là) Giấc Mơ Mỹ”[18]
Said là một nhà trí thức yêu sự công chính hơn là một chính trị gia. Nhà văn Salman Rushdie phát biểu: “Ông ấy đọc thế giới cũng gần giống như ông đọc sách”[19]
Theo ước nguyện của Edward Said, sau khi thiêu ở Hoa Kỳ, thi hài ông được mang về Li Băng mai táng trong một nghĩa trang Tin Lành thuộc làng Broummana là quê hương của gia đình bên vợ, nằm ở phía tây bắc thủ đô Beirut, Li Băng, vào cuối tháng 10/2003.
Rốt cuộc, cho đến khi chết, nhà trí thức Palestine vẫn là một outsider!
- Đông phương học giúp người Âu Châu định nghĩa chính họ. Bởi vì “sự phát triển và duy trì mỗi một nền văn hóa đòi hỏi sự hiện hữu của một nền văn hóa khác, một thứ alter ego. Đông phương học giúp người phương Tây xác định rằng văn hóa Đông phương nói chung và Hồi giáo nói riêng là không thay đổi, là yếu kém, hạ đẳng, lạc hậu, hư hỏng và từ đó, chứng minh rằng văn hóa Tây phương là tốt đẹp, cao cả, ưu thế. “Đông phương học giả thiết một Đông phương tuyệt đối khác với Tây phương”[9]. Người đông phương là nguyên mẫu (prototypical), nghĩa là mãi mãi cứ như thế, không bao giờ thay đổi. Hình ảnh về Đông phương chẳng khác gì hình ảnh của những nhân vật trong các vở kịch châm biếm của Theophrastus hay của La Bruyère: người nào cũng khoác lác, keo kiệt, háu ăn…Từ đó khai sinh ra chủ nghĩa thuộc địa, chủ nghĩa đế quốc được ngụy trang dưới chiêu bài khai hóa thuộc địa.
- Đông phương học sản xuất ra một hình ảnh sai lầm về Đông phương, đặc biệt về Hồi giáo và Á Rập. Đông phương được diễn tả như là một thế giới tách khỏi giòng mạch chính của nhân loại tiến bộ về khoa học, thương mại, nghệ thuật, vân vân.
- Said vạch ra một cái nhìn về lịch sử, trong đó quyền lực văn hóa, mà ông gọi là thứ quyền lực để định nghĩa những kẻ khác[10]gắn với quyền lực để chinh phục. Cái nhìn của phương Tây về phương Đông là cái nhìn về một thứ gì hư hỏng, xấu xa, lười biếng, lạc hậu và đầy nhục cảm. Phương Tây tạo ra ý niệm về phương Đông để tăng cường quyền lực của chủ nghĩa thuộc địa trên những người thuộc địa. Said cho rằng không có một tri thức khách quan và trung lập về Á Châu và đặc biệt về thế giới Á Rập. Công trình nghiên cứu của các học giả phương Tây về phương Đông, bị giới hạn trong những thiên kiến rất có hệ thống về cái thế giới không-phải-phương-Tây này (non-Western world). Chúng trở thành một nhúm định nghĩa đầy những lời sáo rỗng. Theo Said, kể từ thời Ánh Sáng, mỗi một người châu Âu, trong cái mà họ nói về Đông phương, đều là một kẻ phân biệt chủng tộc, một tên đế quốc. Quan điểm của họ hoàn toàn có tính cách hướng chủng (ethnocentric). Ông quả quyết rằng chính “Đông phương học” là chủ đề cho các “isms” nổi tiếng ở Tây phương như imperialism, positivism, utopianism, historicism, Darwinism, racism, Freudianism, Marxism, vân vân[11]. Đó chỉ là những lý thuyết suông, chỉ mang thêm rối rắm chứ chẳng có ích lợi gì.
Trong Culture and Imperialism (1993), Said đào sâu và khai triển thêm về đông phương học trong nhiều lãnh vực khác nhau, đặc biệt là trong các truyện dài, thơ ca, diễn văn và các sản phẩm truyền thông. Ông vạch trần một cách không thương tiếc tinh thần đế quốc ẩn nấp đàng sau tác phẩm của các nhà văn, nhà thơ – kể cả những nhà văn nhà thơ nổi tiếng là đầy tinh thần nhân bản. Trong thế kỷ 19 và 20, những nhà văn châu Âu, ngay cả những người phi chính trị như Jane Austen, cũng cung cấp tính cách hợp pháp cho chủ nghĩa thuộc địa. Forster, Joseph Conrad, Rudyard Kipling… viết văn không phải là nêu lên vấn đề để giải quyết mà là để duy trì thực trạng đế quốc. Albert Camus, nhà văn đoạt giải Nobel và được ngưỡng mộ trên toàn thế giới chẳng hạn, cũng không thoát khỏi con mắt soi bói của Said. Trong một bài viết về nhà văn này có tựa đề Albert Camus, ou l’inconscient colonial, được tờ tạp chí nổi tiếng Pháp “Le Monde diplomatique”[12] trích đăng từ tác phẩm nói trên, Said phân tích khá tỉ mỉ tinh thần thuộc địa chứa đựng trong các tác phẩm vốn được xem là rất nhân bản của Camus. Theo Said, “Camus là một con người đạo đức trong một thế giới vô đạo đức”[13]. Nếu đối chiếu những quả quyết và những tiên đoán của Camus về lịch sử của nước Algérie thuộc địa với lịch sử do những người Algérie viết ra sau khi giành được độc lập, Said tìm thấy đầy đủ sự mâu thuẫn giữa chủ nghĩa quốc gia Algérie và chủ nghĩa thuộc địa Pháp. Có thể bản thân Camus không hề muốn đề cao tinh thần thuộc địa, nhưng tinh thần đó xuất hiện trong các tác phẩm L’Etranger, La Peste và La Chute một cách vô thức. Said nêu lên vài chi tiết nhỏ: trong L’Étranger, Meursault giết một người Á Rập, nhưng người Á Rập này không hề có tên, không lý lịch; trong La Peste, có những người Á Rập chết vì dịch hạch, nhưng họ cũng chẳng hề có tên. Điều đó cho thấy có một thái độ đối xử khác biệt giữa người Pháp và dân thuộc địa. “Tôi muốn nhấn mạnh rằng người ta tìm thấy trong những tiểu thuyết của Camus điều mà người ta tưởng chừng như đã qua đi từ lâu rồi: những ảo tưởng về cuộc chinh phục thuộc địa của Pháp, bắt đầu từ năm 1830, tiếp tục trong khi Camus còn sống và được phóng rọi trong các văn bản của ông”. Said không ngần ngại quả quyết “Những tiểu thuyết và truyện ngắn của Camus cô đọng một cách rất rõ ràng những truyền thống, ngôn ngữ và chiến lược tinh vi nhằm chiếm hữu nước Algérie”.
Tóm lại, Said viết Orientalism để bác bỏ Orientalism. Tại sao? Bác bỏ Đông phương học, là bác bỏ một sự khái quát hóa về sinh vật học, về ý nghĩa văn hóa và bác bỏ những thiên kiến chủng tộc và tôn giáo. Nó cũng bác bỏ sự tham lam chiếm đoạt vốn là động cơ thúc đẩy đầu tiên của các công trình nghiên cứu tri thức. Đông phương không thể được nghiên cứu theo cách thức “phi-Đông phương”[14]. Đông phương phải được nhìn ngắm và nghiên cứu bằng một cái nhìn toàn diện, trong đó ranh giới giữa Đông và Tây phải bị xóa nhòa, theo Said. Đối với người phương Tây, Said được xem là một người giúp mở mắt (eye opener), cho phép họ nhìn thấy những mâu thuẫn trong nền văn hóa của họ và những ảo tưởng mà họ tạo ra về The Other. Noam Chomsky nhận xét: “Các công trình nghiên cứu kinh điển của ông dành hết để làm sáng tỏ những huyền thoại về chính chúng ta cũng như về cách diễn giải của chúng ta đối với những nền văn hóa khác, giúp chúng ta tái xét nhận thức của chúng ta về phần còn lại của thế giới và về chính chúng ta. Nhận biết chúng ta là gì là một công việc khó khăn; không có gì khó hơn là soi lại chính mình trong tấm gương”[15].
Tất nhiên không phải ai cũng như Chomsky. Các luận cứ của Said gặp nhiều phản bác. Những nhà chuyên môn nghiên cứu về Trung Đông, trong lúc không phủ nhận nhiều luận điểm của Said mới lạ và có giá trị, nhưng chỉ ra nhiều điều cho thấy một số các lời khẳng định của Said là có vẻ cường điệu, ngoa dụ và quá giản lược. Sử gia Anh J. H. Plumb viết trong “The Times”, cho rằng Said đã tạo ra rất nhiều thuật ngữ tuyệt vời và gây kích thích về mặt tri thức, nhưng đáng tiếc là Said đã không nghiên cứu sâu hơn về các tương quan lịch sử giữa Đông và Tây để tìm ra cái gì sai và cái gì đúng. Said đã sai lầm khi quả quyết rằng những nhà đông phương học sáng tạo ra phương Đông để thỏa mãn các đòi hỏi về sự trội hơn về mặt tri thức và văn hóa để thi hành chủ nghĩa đế quốc. Said không biết rằng rất nhiều những nghiên cứu về Đông phương đã phản ảnh rất trung thực về chính bản chất của Đông phương.
Một học giả khác, Keith Windschuttle cho rằng: mặc dầu Âu Châu, từ rất lâu, muốn tách hẳn khỏi các phần còn lại của thế giới, nó không cần phải nại đến các nền văn hóa khác để tự xác định chính căn cước của mình. Âu Châu vốn có gia tài riêng của nó là truyền thống văn hóa Hy Lạp và Thiên Chúa Giáo. Truyền thống đó được bổ sung, cải biến và nâng cao qua rất nhiều cao trào đặc biệt trong lịch sử như thời kỳ Phục Hưng hay thời kỳ Ánh sáng…. Những gì mà người Tây phương khám phá và tìm hiểu được trong quá khứ không chỉ giúp cho người Tây phương mà còn giúp cho người Đông phương tìm lại hình ảnh của chính mình trong quá khứ, điều mà bản thân họ không làm được. Hơn nữa, những hình ảnh mà người Tây phương tạo ra về Đông phương bây giờ chính người Đông phương có xu hướng phục hồi lại[16].
Đối với những người Á Rập và những người khác thuộc thế giới thứ ba, thì ông là người “tặng chữ” - a granter of words -, từ của Tamin al-Barghouti, nhà thơ Palestine. Họ không có chữ để nói. Ông đã nói hộ những gì nằm trong tim và trong óc họ từ hai thế kỷ nay. Said diễn tả chúng bằng chính ngôn ngữ của kẻ thù của họ và nói ngay trước mặt kẻ thù. Sự nghiệp của ông - nếu có thể nói là sự nghiệp - là phá hủy những hành ngôn thuộc địa nhằm lật tẩy sự phi lý trong những luận cứ cung cấp cho những kẻ gây chiến, thứ bình an tâm hồn mà họ cần.
Orientalism khiến một số trí thức Á Rập vui mừng, tất nhiên. Nhưng không lâu. Vì trong khi kết án Tây phương, Said cũng là người mạnh mẽ nhất lên án sự thất bại của chủ nghĩa quốc gia Á Rập, chủ nghĩa đã đưa đến nghèo đói, độc đoán và bè phái. Sau năm 1993, ông lên án hiệp ước Oslo, chê bai Arafat, cho rằng ông này là một “personage tragique”, một người phi dân chủ, không hề hỏi ý kiến của nhân dân. Sự phê phán gắt gao đến nỗi, có một thời gian các tác phẩm của Said bị cấm bán ngay ở tại Palestine. Ông cũng lên án giáo chủ Khomeini của Iran khi ông này kết án tử hình nhà văn Salman Rushdie, phê phán Saddam Hussein, chỉ trích lãnh tụ Khadafi của Lybia. Bởi thế, trong lúc được thế hệ trẻ và giới trí thức Á Rập mến mộ, Said vẫn bị các nhà cầm quyền tại những xứ sở “đông phương” - mà ông hết lòng bênh vực - dè chừng, nếu không muốn nói là chẳng mấy ưa.
Đúng là lưỡng đầu thọ địch.
“Là một người Palestine Tân giáo, ông cảm thấy lạc lõng trong xứ Ai Cập thời thuộc địa; như là một người Á Rập, ông là một kẻ ngoại cuộc khi sống ở Hoa Kỳ, và sau cuộc chiến tranh 1967 khi Israel chiếm đóng phần còn lại của Palestine, ông bắt đầu cảm thấy “nỗi lẻ loi của một kẻ chẳng có quê hương hay một nơi chốn nào khác để trở về”[17]
“Mặc dù thường được xem là một trong những người phê bình gay gắt nhất (các chính sách) của Hoa kỳ, điều mỉa mai là Said lại là người làm cho nước Mỹ hãnh diện, vì ông là tiêu biểu cho cái gì cao đẹp nhất của tinh thần Mỹ quốc bằng cách nâng cao biểu tượng của nó cho đến hơi thở cuối cùng. Điều quan trọng hơn hết là di sản của ông thuộc về toàn thế giới như là lý tưởng của (cái gọi là) Giấc Mơ Mỹ”[18]
Said là một nhà trí thức yêu sự công chính hơn là một chính trị gia. Nhà văn Salman Rushdie phát biểu: “Ông ấy đọc thế giới cũng gần giống như ông đọc sách”[19]
Theo ước nguyện của Edward Said, sau khi thiêu ở Hoa Kỳ, thi hài ông được mang về Li Băng mai táng trong một nghĩa trang Tin Lành thuộc làng Broummana là quê hương của gia đình bên vợ, nằm ở phía tây bắc thủ đô Beirut, Li Băng, vào cuối tháng 10/2003.
Rốt cuộc, cho đến khi chết, nhà trí thức Palestine vẫn là một outsider!