Bạn có từng nghe đến "Tam thư lục lễ" bao giờ chưa?
Tam thư lục lễ có một tên gọi khác là Tam môi lục sính, đây là nét văn hóa trong hôn lễ xưa của người Trung Quốc.
Tam thư lục lễ nghĩa nôm na là 3 bức thư 6 lễ mà nhà trai làm chủ.
Tam thư gồm Sính thư, Lễ thư và Nghênh thân thư. Đây là 3 lá thư nhà trai đưa sang nhà gái để đưa tin, xin báo và chuẩn bị dàn xếp các nghi thức.
Sính thư: Nhà trai viết một tờ giấy nhờ người làm mai đưa sang nhà gái với hàm ý muốn cầu hôn và bước sang nhà gái để bàn tính hôn sự.
Lễ thư: Sau lễ dám ngõ, họ nhà trai sẽ chọn ngày lành tháng tốt viết tờ giây xin ngày sinh tháng đẻ của cô gái rồi nhờ người làm mai đưa sang.
Nghênh thân thư là giấy họ nhà trai ghi ngày, giờ đón dâu muốn nhà gái tham khảo.
Lục lễ là chỉ 6 lễ gồm:
Nạp thái: Lễ đặt vấn đề hôn nhân, dạm ngõ
Vấn danh: Lễ hỏi tên tuổi, thân thế
Nạp cát: Lễ tiếp nhận xem tuổi hai bên, đính hôn
Nạp chinh: Lễ nhận lễ vật
Thỉnh kỳ: Lễ định ngày cưới
Thân nghênh: Lễ rước dâu
Nhà trai phải làm đầy đủ thì khi nhà gái đã chấp thuận làm thông gia.
Tam thư lục lễ thực hiện trước lễ Thân nghênh.
Nạp thái tức (lễ Dạm ngõ hay Chạm ngõ) là trên cơ sở hôn nhân nói trên, tức được mệnh lệnh đồng ý của cha mẹ và lời nói của người mai mối, nó là tiền đề căn bản cho để thực hiện Tam thư lục lễ. Nhà trai đặt vấn đề hôn nhân với nhà gái. Sau khi nhà gái đồng ý, nhà trai tiến hành lễ Nạp thái với nhà gái. Thông thường nhà lễ vật Nạp thái nhà trai tặng là một đôi chim nhạn sống - chim nhạn khi trời lạnh thì bay về phương nam, khi ấm lại trở về phương bắc, được coi là thuận ứng với đạo âm dương giữa trời đất. Hơn nữa chim nhạn kết đôi trung trinh không đổi thay, một con chết thì con còn lại sẽ cô độc đến già.
Nạp thái tặng chim nhạn chính là biểu đạt tâm nguyện tốt đẹp thuận ứng với âm dương tự nhiên, trung trinh đối với hôn nhân.
Vấn danh (hỏi tên) : Thực ra không phải là hỏi tên người nữ mà là ngày, giờ, tháng, năm sinh (sinh thần bát tự). Cần xem ngày giờ sinh của người nữ hợp với người nam thì mới có thể thành hôn.
Nạp cát: Lễ tiếp sau Vấn danh. Lễ này tương đương với lễ đính hôn ngày nay. Nhà trai thông báo kết quả tốt lành cho nhà gái sau khi xem tuổi sau lễ Vấn danh, đồng thời nhà trai đích thân đem lễ vật đến cho nhà gái để ký kết hôn ước. Lễ vật lúc này đa phần là đồ trang sức, khí cụ, gấm lụa, đất đai, nhà cửa.. Bày tỏ trong tương lai không xa sẽ chính thức nghênh đón cô gái.
Nạp cát lễ cao tức là phía nhà trai rất coi trọng nhà gái.
Nạp chinh: Nhà trai trong quá trình này cần phải đem tất cả những sính lễ đến tặng nhà gái, lễ tiết khá phức tạp. Sau đó nhà gái sẽ trả lại một phần sính lễ, hoặc là mua lễ vật mới tặng nhà trai, hoặc là tặng quần áo giày tất mà cô gái đích thân làm cho chàng trai.
Số lượng sính lễ và hồi lễ thông thường là 8 loại, phần nhiều đều có tên gọi cát tường như ý.
Thỉnh kỳ: Nhà trai tính ra ngày tốt kết hôn, mời nhà gái xem. Mọi người xưa nay đều rất cầu kỳ coi trọng ngày tốt, việc hiếu hỉ cưới xin đều phải chọn ngày tốt lành thuận lợi. Tính toán ngày lành chủ yếu là tránh những ngày đại hung, thậm chí còn phải tránh những năm không tốt lành ảnh hưởng đến vận mệnh hai nhà.
Thân nghênh: Chú rể đón cô dâu về nhà, làm lễ hợp cẩn, bách niên hảo hợp.
Chú rể phải ngồi xe ngựa đến nhà cô dâu, bái kiến cha mẹ cô dâu và tất cả họ hàng thân thích. Trước khi cô dâu lên xe, chú rể phải đi quanh xe ngựa 3 vòng, sau đó đi trước dẫn đường về nhà. Cô dâu được các phù dâu đi theo tháp tùng.
Nếu chưa thân nghênh mà người trai chết, cô gái có thể lấy người khác. Nhưng nếu lỡ thân nghênh rồi mà người trai mới chết, dù chưa bái đường, theo quy định của tục lệ, cô dâu chỉ có thể nhận mệnh ở góa suốt đời.
Xe ngựa cô dâu là do nhà gái tự chuẩn bị, sau khi thành hôn 3 tháng thì nhà trai đích thân đem trở lại nhà gái, gọi là "phản mã" (xe ngựa trở về). Thường gọi là lại mặt - ngày nay vẫn còn nhưng nhiều khi lại mặt ngay sau ngàu cưới, không bắt buộc thời gian.
Sự hình thành Tam thư lục lễ là sự trầm lắng của văn minh Trung Hoa. Không rõ nó được hình thành từ giai thoại nào và như thế nào nhưng Tam thư lục lễ tiêu biểu cho sự thăng hoa của trình độ văn minh, từng đời từng đời được truyền thừa mấy nghìn năm, nguyên nhân căn bản của nó vẫn là văn minh và lý tính. Tuy dần bị mai một nhưng giá trị văn hóa vẫn còn nguyên.
- Ngay nay Tam thư lục lễ ít được mọi người biết đến. Phần vì các nghi lễ nhiều lại phức tạp, phần vì việc kết hôn ngày nay không khắt khe như ngày xưa. Phụ nữ có thể ly hôn rồi tái hôn nhưng thời xưa nữ nhân nếu bị hưu thư hoặc chồng chết thì phải ở góa, vì vậy phụ nữ đa phần đều một lần duy nhất lên kiệu hoa.
Cũng có lẽ bởi vì không có quá nhiều trình tự hay trọng lễ nghi cộng với xã hội phát triển, tư tưởng thoải mái nên hôn nhân giữa các tiểu bối không mấy bền chặt như các cụ ngày xưa.
Có lẽ do ảnh hưởng của văn hóa Trung quốc, người Việt ta cũng có Tam thư lục lễ nhưng ngày nay không mấy được nhắc đến, hôn lễ đơn giản hơn nhiều.
Tam thư lục lễ tuy nghi thức rườm ra và có hơi khắt khe nhưng vẫn là nét văn hóa khiến thế hệ sau nên nhìn lại mà học tập.
Tam thư lục lễ có một tên gọi khác là Tam môi lục sính, đây là nét văn hóa trong hôn lễ xưa của người Trung Quốc.
Tam thư lục lễ nghĩa nôm na là 3 bức thư 6 lễ mà nhà trai làm chủ.
Tam thư gồm Sính thư, Lễ thư và Nghênh thân thư. Đây là 3 lá thư nhà trai đưa sang nhà gái để đưa tin, xin báo và chuẩn bị dàn xếp các nghi thức.
Sính thư: Nhà trai viết một tờ giấy nhờ người làm mai đưa sang nhà gái với hàm ý muốn cầu hôn và bước sang nhà gái để bàn tính hôn sự.
Lễ thư: Sau lễ dám ngõ, họ nhà trai sẽ chọn ngày lành tháng tốt viết tờ giây xin ngày sinh tháng đẻ của cô gái rồi nhờ người làm mai đưa sang.
Nghênh thân thư là giấy họ nhà trai ghi ngày, giờ đón dâu muốn nhà gái tham khảo.
Lục lễ là chỉ 6 lễ gồm:
Nạp thái: Lễ đặt vấn đề hôn nhân, dạm ngõ
Vấn danh: Lễ hỏi tên tuổi, thân thế
Nạp cát: Lễ tiếp nhận xem tuổi hai bên, đính hôn
Nạp chinh: Lễ nhận lễ vật
Thỉnh kỳ: Lễ định ngày cưới
Thân nghênh: Lễ rước dâu
Nhà trai phải làm đầy đủ thì khi nhà gái đã chấp thuận làm thông gia.
Tam thư lục lễ thực hiện trước lễ Thân nghênh.
Nạp thái tức (lễ Dạm ngõ hay Chạm ngõ) là trên cơ sở hôn nhân nói trên, tức được mệnh lệnh đồng ý của cha mẹ và lời nói của người mai mối, nó là tiền đề căn bản cho để thực hiện Tam thư lục lễ. Nhà trai đặt vấn đề hôn nhân với nhà gái. Sau khi nhà gái đồng ý, nhà trai tiến hành lễ Nạp thái với nhà gái. Thông thường nhà lễ vật Nạp thái nhà trai tặng là một đôi chim nhạn sống - chim nhạn khi trời lạnh thì bay về phương nam, khi ấm lại trở về phương bắc, được coi là thuận ứng với đạo âm dương giữa trời đất. Hơn nữa chim nhạn kết đôi trung trinh không đổi thay, một con chết thì con còn lại sẽ cô độc đến già.
Nạp thái tặng chim nhạn chính là biểu đạt tâm nguyện tốt đẹp thuận ứng với âm dương tự nhiên, trung trinh đối với hôn nhân.
Vấn danh (hỏi tên) : Thực ra không phải là hỏi tên người nữ mà là ngày, giờ, tháng, năm sinh (sinh thần bát tự). Cần xem ngày giờ sinh của người nữ hợp với người nam thì mới có thể thành hôn.
Nạp cát: Lễ tiếp sau Vấn danh. Lễ này tương đương với lễ đính hôn ngày nay. Nhà trai thông báo kết quả tốt lành cho nhà gái sau khi xem tuổi sau lễ Vấn danh, đồng thời nhà trai đích thân đem lễ vật đến cho nhà gái để ký kết hôn ước. Lễ vật lúc này đa phần là đồ trang sức, khí cụ, gấm lụa, đất đai, nhà cửa.. Bày tỏ trong tương lai không xa sẽ chính thức nghênh đón cô gái.
Nạp cát lễ cao tức là phía nhà trai rất coi trọng nhà gái.
Nạp chinh: Nhà trai trong quá trình này cần phải đem tất cả những sính lễ đến tặng nhà gái, lễ tiết khá phức tạp. Sau đó nhà gái sẽ trả lại một phần sính lễ, hoặc là mua lễ vật mới tặng nhà trai, hoặc là tặng quần áo giày tất mà cô gái đích thân làm cho chàng trai.
Số lượng sính lễ và hồi lễ thông thường là 8 loại, phần nhiều đều có tên gọi cát tường như ý.
Thỉnh kỳ: Nhà trai tính ra ngày tốt kết hôn, mời nhà gái xem. Mọi người xưa nay đều rất cầu kỳ coi trọng ngày tốt, việc hiếu hỉ cưới xin đều phải chọn ngày tốt lành thuận lợi. Tính toán ngày lành chủ yếu là tránh những ngày đại hung, thậm chí còn phải tránh những năm không tốt lành ảnh hưởng đến vận mệnh hai nhà.
Thân nghênh: Chú rể đón cô dâu về nhà, làm lễ hợp cẩn, bách niên hảo hợp.
Chú rể phải ngồi xe ngựa đến nhà cô dâu, bái kiến cha mẹ cô dâu và tất cả họ hàng thân thích. Trước khi cô dâu lên xe, chú rể phải đi quanh xe ngựa 3 vòng, sau đó đi trước dẫn đường về nhà. Cô dâu được các phù dâu đi theo tháp tùng.
Nếu chưa thân nghênh mà người trai chết, cô gái có thể lấy người khác. Nhưng nếu lỡ thân nghênh rồi mà người trai mới chết, dù chưa bái đường, theo quy định của tục lệ, cô dâu chỉ có thể nhận mệnh ở góa suốt đời.
Xe ngựa cô dâu là do nhà gái tự chuẩn bị, sau khi thành hôn 3 tháng thì nhà trai đích thân đem trở lại nhà gái, gọi là "phản mã" (xe ngựa trở về). Thường gọi là lại mặt - ngày nay vẫn còn nhưng nhiều khi lại mặt ngay sau ngàu cưới, không bắt buộc thời gian.
Sự hình thành Tam thư lục lễ là sự trầm lắng của văn minh Trung Hoa. Không rõ nó được hình thành từ giai thoại nào và như thế nào nhưng Tam thư lục lễ tiêu biểu cho sự thăng hoa của trình độ văn minh, từng đời từng đời được truyền thừa mấy nghìn năm, nguyên nhân căn bản của nó vẫn là văn minh và lý tính. Tuy dần bị mai một nhưng giá trị văn hóa vẫn còn nguyên.
- Ngay nay Tam thư lục lễ ít được mọi người biết đến. Phần vì các nghi lễ nhiều lại phức tạp, phần vì việc kết hôn ngày nay không khắt khe như ngày xưa. Phụ nữ có thể ly hôn rồi tái hôn nhưng thời xưa nữ nhân nếu bị hưu thư hoặc chồng chết thì phải ở góa, vì vậy phụ nữ đa phần đều một lần duy nhất lên kiệu hoa.
Cũng có lẽ bởi vì không có quá nhiều trình tự hay trọng lễ nghi cộng với xã hội phát triển, tư tưởng thoải mái nên hôn nhân giữa các tiểu bối không mấy bền chặt như các cụ ngày xưa.
Có lẽ do ảnh hưởng của văn hóa Trung quốc, người Việt ta cũng có Tam thư lục lễ nhưng ngày nay không mấy được nhắc đến, hôn lễ đơn giản hơn nhiều.
Tam thư lục lễ tuy nghi thức rườm ra và có hơi khắt khe nhưng vẫn là nét văn hóa khiến thế hệ sau nên nhìn lại mà học tập.