Hướng dẫn Cảm nghĩ ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê ngữ văn lớp 7 “Quê hương mỗi người chỉ một Như là chỉ một mẹ thôi” Những câu thơ của nhà thơ Đỗ Trung Quân không bao giờ phai mờ trong tâm trí người đọc không chỉ vì chất thơ trữ tình bình dị mà đậm đà mà còn vì chân lí muôn thủ mà nó gợi ra đó là tầm quan trọng và sự duy nhất của quê hương. Đó là lí do khi người ta xa quê chỉ khát khao được trở về quê rồi có những người cả đời bôn ba bốn bể năm châu lại chỉ có một ước nguyện là khi nằm xuống được trở về nơi quê cha đất tổ. Hạ Tri Chương cũng có khát khao về quê hương gần gụi như vậy, sau bao năm ông vẫn mong mỏi trở về với quê hương, mảnh đất ấu thơ đã nuôi dưỡng con người và tâm hồn ông. Nhưng thật đáng tiếc vì xa cách lâu ngày, ông trở về quê lại nếm trải nỗi đau làm khách. Để hiểu nỗi đâu này, chúng ta hãy cùng đi vào cảm nghĩ về bài thơ “Hồi hương ngẫu thư” của Hạ Tri Chương. Dưới đây là bài làm mẫu cho đề bài này có tính chất tham khảo. Để làm bài tập này, chúng ta cần giới thiệu tác giả, tác phẩm bài thơ, phân tích bài thơ về nêu cảm nghĩ về nó.
BÀI LÀM 1 CẢM NGHĨ NGẪU NHIÊN VIẾT NHÂN BUỔI MỚI VỀ QUÊ
Người ta thường hay nói “Sinh ra ở đâu thì mãi thuộc về nơi ấy”, ai cũng có cho mình một quê hương để thuộc về nhưng đôi khi vì sự xa cách, không biết tự lúc nào mà bản thân đã không còn được mảnh đất mình sinh ra công nhận. Đó là một nỗi đâu đớn ngậm ngùi không nói lên lời mà Hạ Tri Chương đã cảm nhận khi sau nhiều năm quay trở về quê của mình, ông trở thành khách lạ ngay trên quê hương mình. Và bao nhiêu đó đã gửi gắm qua những dòng thơ: “Hồi hương ngẫu thư”.
Bài thơ thất ngôn tư tuyệt cô đọng mà để lại bao nhiêu dư vang;
Thiếu tiểu li gia lão đại hồi
Hương âm vô cải mấn mao tồi
Dịch thơ:
Khi đi trẻ, lúc về già
Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao
Câu thơ chia làm hai vế đó là về thời gian cũng như hành động của con người, khi xa quê, tác giả còn thanh niên, như cánh chim bằng muốn dang rộng đôi cánh bay lên bầu trời cao rộng, đến khi nhìn lại muốn quay trở lại quê hương thì đã già. Có lẽ sau bao nhiêu năm lăn lộn chốn quan trường, đã đến lúc, ông muốn về quê hương nơi mình sinh ra an dưỡng những năm tháng tuổi già trong thanh bình. Xa quê lâu như thế nhưng “Hương âm vô cải” thật là một điều đáng quý. Giọng nói quê là một cái gì đó vô cùng đặc trưng mà dường như mỗi vùng miền đều có những chất giọng khác nhau và chỉ có người ở nơi đó mới có giọng ấy. Nhưng giọng quê cũng không phải là một đặc điểm dễ giữ nguyên vẹn nhất là khi người ta đi xa, đến và sinh sống lâu dài ở một nơi khác, tiếp xúc với giọng nói, nền văn hóa khác, nhiều người bị biến đổi giọng nói.
Thế nhưng tác giả còn rất tự tin mình vẫn giữ được giọng nói quê hương, giữ nguyên cái bản sắc quê hương và là sự thể hiện của một tấm lòng không bao giờ quên quê hương mình. Làm sao ông có thể quên quê hương khi mà mỗi ngày ông đều nói giọng quê mình, mỗi âm thanh phát ra hẳn còn hằn lại một nỗi nhớ quê da diết, một quê hương luôn trong trái tim tác giả. Nhưng hình ảnh đối lập ngay sau đó: “mấn mao tồi” cho thấy dấu hiệu của thời gian đã làm cho con người đổi khác, mái đầu bạc là biểu thị cho tuổi tác cao, tuổi già đã bao phủ. Thế nhưng cũng vì thế mà nổi bật lên một tình cảm thủy chung từ ngày đi lúc còn trẻ cho đến ngày trở về tuy ã già bao nhiêu thì quê hương vãn thường trực trong trái tim tác giả. Quê hương ấy hiện lên trong giọng nói không thể đổi khác mà ông tự hào. Thế nhưng, nhà thơ không khỏi ngạc nhiên xen lẫn ngậm ngùi khi mà:
- Nhi đồng tương kiến bất tương thức
- Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai
Dịch thơ:
- Trẻ con thấy lạ không chào
- Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi
Dân gian ta có câu: “Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ”. Trẻ con thì ngây thơ, thật thà, cũng chính vì vậy mà câu hỏi của chúng khiến cho nhà thơ không khỏi đau lòng. Chúng vì lần đầu nhìn thấy ông bởi đã nhiều năm ông không về quê hương, bạn bè cũ hẳn còn nhớ nữa là trẻ con chưa bao giờ gặp mặt. Ông trở thành người “lạ” với những đứa trẻ, cũng chính là với thế hệ sau của dân làng, với chính mảnh đất quê hương mình. Còn nỗi đau nào lại xót xa hơn nỗi đau quay trở lại quê hương của mình mà lại bị coi là “khách”? Ông ở đất khách bao nhiêu năm luôn mong về quê hương, tức là chưa khi nào ông coi nơi mình đang sống là quê cả, ấy vậy mà khi trở về quê lại bị coi là khách, vậy rốt cuộc quê hương ông là ở đâu?
Bài thơ là niềm ngậm ngùi xót xa của một người khát khao về với quê hương mà lại hụt hẫng ngày trở về. Qua đó ta thấy rằng thời gian trôi đi, mọi thứ đều có thể đổi khác, không ai khống chế được, nên khi có thể, đừng trì hoãn lần về với quê hương để mà hối hận xót xa khi không còn được tha thiết như ngày nào.
Vy - vfo.vn
BÀI VĂN 2 CẢM NHẬN BÀI “HỒI HƯƠNG NGẪU THƯ”.
Con người xưa nay luôn mang một nỗi niềm thiên cổ, mang mang thiên cổ sầu, ấy là cảm thấy sự nhỏ bé, hữu hạn của mình trước không gian, thời gian vô cùng. Thời gian tuyến tính, một đi không trở lại, bởi vậy ngoảnh mặt đã thấy già đi. Xa quê, bôn ba khắp bốn phương, trở lại quê nhà, nơi chôn rau cắt rốn, bỗng thấy mình như xa lạ. cảm giác ấy thật xa xót biết bao. Với cảm hứng ấy bài thơ “Hồi hương ngẫu thư” của Hạ Tri Chương đã làm bâng khuâng nhiều thế hệ bạn đọc.
- Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi
- Hương âm vô cải, mấn mao tồi
- Nhi đồng tương kiến, bất tương thức
- Tiểu vấn: khách tòng hà xứ lai?
Ngay nhan đề bài thơ đã thể hiện niềm xúc động dâng trào khi tác giả trở về với mảnh đất đã sinh ra mình mà gần hết cuộc đời nay mới trở lại. Tình cảm nhớ quê luôn thường trực trong lòng tác giả, nhưng phải đến khi đứng trên mảnh đất nơi chôn nhau cắt rốn, tình cảm ấy không thể nén được và trào dâng:
- Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi
- (Khi đi trẻ, lúc về già)
Có ai sinh ra và lớ lên mà không mang trong mình nỗi niềm thương nhớ về mảnh đất quê hương. Tưởng như đó đã trở thành mùi riêng của đất, của quê hương này, ăn sâu vào tiềm thức và tâm thức của mỗi người. Chỉ tiếc lắm khi, xa quê, vì mưu sinh, vì sự nghiệp con người ta dần già rời xa bến đỗ ấy. Đến khi ngoảnh lại bỗng thấy mình như vị khách, đứng trên quê hương mà vẫn thấy nhớ quê hương. Và cảm xúc bâng khuâng, nghẹn ngào thiên liêng như một lười khấn khứa trở đi trở lại rất nhiều trong thơ. ở đây, với Hạ Tri Chương cũng không là ngoại lệ. Nỗi niềm nhớ quê đã trở thành thường trực đau đáu trong lòng. Quê hương trong bài thơ là cố hương. Tác giả xa cách không phải là 3 năm, 15 năm mà là hơn nửa thế kỉ, gần một đời người. Đành rằng cuộc sống chốn Tràng An náo nhiệt, ồn ào, sung túc. Công danh có thành đạt đến mức nào, cái chất quê, cái máu, cái hồn trong ông vẫn không hề thay đổi. Có nỗi đau nào hơn nỗi đau “li gia”. Tuy vậy, ta thấy rằng với tác giả, vui sướng vô cùng là cuối đời còn được hồi hương.
Tuổi trẻ một đi không trở lại. tác giả ở đây, xa quê khi còn trẻ, khi trở về tóc đã bạc mái đầu. Dường như cả một khối ngậm ngùi chau xót biết bao khi ta sinh ra và phải rời bỏ nơi này đến một vùng đất mới. Nhưng dẫu cho dòng thời gian vô thủy, vô chúng có chảy trôi mãi mãi, khiến cho tóc bạc, da mồi, địa vị công danh thay đổi. Nhưng cái cốt cách, cái linh hồn của đất mẹ quê cha vẫn nguyên đó.
- Hương âm vô cải, mấn mao tồi
- (Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao)
Lời nói, giọng quê vẫn không thay đổi, ấy chẳng phải là sự gắn bó với quê hương đó sao. Thật vậy truyền thống văn hoá của gia đình, dân tộc quê hương không dễ gì thay đổi được. Nó được ăn sâu trong máu, trong tâm hồn tác giả. Lý Bạch trên bước đường chống kiếm lãng du xa quê từ nhỏ nhưng ánh trăng nơi quán trọ đã gợi trong ông những kỉ niệm thân thương nhất về quê hương, ánh trăng làm sống dậy một thời gắn bó từ thuở nằm nôi. Hạ Tri Chương cũng vậy, ông sinh ra và lớn lên trong tình yêu thương hết mực của cha mẹ, của quê hương, chỉ có những kẻ bạc tình mới nỡ nhắm mắt quên đi nguồn cội.
Nhưng về tới quê hương một nghịch lý đã xảy ra:
- Nhi đồng tương kiến, bất tương thức
- Tiếu vấn: khách tòng hà xứ lai?
- (Trẻ con nhìn lạ không chào
- Hỏi rằng: khách ở chốn nào lại chơi?)
Một quãng thời gian đủ để cho quên nhớ đời người. Và ở đây vẫn còn thấy một con người son sắt, thủy chung, nặng lòng với mối tình quê. Sau tiếng cười nói ồn ào của lũ trẻ, lòng tác giả không khỏi man mác. Trong con mắt lũ trẻ thì mình là khách lạ, đó là một thực tế bởi khi ông từ giã quê hương thì làm gì đã có chúng. Sau nụ cười tinh nghịch của trẻ thơ là những giọt nước mắt chua cay và sung sướng. Ta là khách lạ! Xa quê gần một đời người nay mới trở lại, ta dù lạ với lũ trẻ thơ như quá đỗi thân thuộc với mảnh đất quê hương. Sung sướng hơn bao giờ hết nhà thơ đang đứng trên mảnh đất quê hương, ông đã thực hiện được tâm nguyện của mình “sống chết với quê hương”. Tình cảm ấy đẹp quá, thiêng liêng quá! Chỉ khi một người yêu quê tha thiết, mới xa xót trước cảnh tượng như vậy. Giọt nước mắt chảy vào trong, trào dâng và âm ỉ trong lòng người con xa quê.
Bằng một tình yêu quê hương tha thiết, tác giả đã làm sống dậy trong lòng ta biết abo cảm xúc thiêng liêng về quê hương, về sự nghịch lí trong cuộc đời. Để cho ta cứ ám ảnh mãi trong mình “một chiếc linh hồn nhỏ-mang mang thiên cổ sầu”.
Thủy - vfo.vn
BÀI LÀM 1 CẢM NGHĨ NGẪU NHIÊN VIẾT NHÂN BUỔI MỚI VỀ QUÊ
Người ta thường hay nói “Sinh ra ở đâu thì mãi thuộc về nơi ấy”, ai cũng có cho mình một quê hương để thuộc về nhưng đôi khi vì sự xa cách, không biết tự lúc nào mà bản thân đã không còn được mảnh đất mình sinh ra công nhận. Đó là một nỗi đâu đớn ngậm ngùi không nói lên lời mà Hạ Tri Chương đã cảm nhận khi sau nhiều năm quay trở về quê của mình, ông trở thành khách lạ ngay trên quê hương mình. Và bao nhiêu đó đã gửi gắm qua những dòng thơ: “Hồi hương ngẫu thư”.
Bài thơ thất ngôn tư tuyệt cô đọng mà để lại bao nhiêu dư vang;
Thiếu tiểu li gia lão đại hồi
Hương âm vô cải mấn mao tồi
Dịch thơ:
Khi đi trẻ, lúc về già
Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao
Câu thơ chia làm hai vế đó là về thời gian cũng như hành động của con người, khi xa quê, tác giả còn thanh niên, như cánh chim bằng muốn dang rộng đôi cánh bay lên bầu trời cao rộng, đến khi nhìn lại muốn quay trở lại quê hương thì đã già. Có lẽ sau bao nhiêu năm lăn lộn chốn quan trường, đã đến lúc, ông muốn về quê hương nơi mình sinh ra an dưỡng những năm tháng tuổi già trong thanh bình. Xa quê lâu như thế nhưng “Hương âm vô cải” thật là một điều đáng quý. Giọng nói quê là một cái gì đó vô cùng đặc trưng mà dường như mỗi vùng miền đều có những chất giọng khác nhau và chỉ có người ở nơi đó mới có giọng ấy. Nhưng giọng quê cũng không phải là một đặc điểm dễ giữ nguyên vẹn nhất là khi người ta đi xa, đến và sinh sống lâu dài ở một nơi khác, tiếp xúc với giọng nói, nền văn hóa khác, nhiều người bị biến đổi giọng nói.
Thế nhưng tác giả còn rất tự tin mình vẫn giữ được giọng nói quê hương, giữ nguyên cái bản sắc quê hương và là sự thể hiện của một tấm lòng không bao giờ quên quê hương mình. Làm sao ông có thể quên quê hương khi mà mỗi ngày ông đều nói giọng quê mình, mỗi âm thanh phát ra hẳn còn hằn lại một nỗi nhớ quê da diết, một quê hương luôn trong trái tim tác giả. Nhưng hình ảnh đối lập ngay sau đó: “mấn mao tồi” cho thấy dấu hiệu của thời gian đã làm cho con người đổi khác, mái đầu bạc là biểu thị cho tuổi tác cao, tuổi già đã bao phủ. Thế nhưng cũng vì thế mà nổi bật lên một tình cảm thủy chung từ ngày đi lúc còn trẻ cho đến ngày trở về tuy ã già bao nhiêu thì quê hương vãn thường trực trong trái tim tác giả. Quê hương ấy hiện lên trong giọng nói không thể đổi khác mà ông tự hào. Thế nhưng, nhà thơ không khỏi ngạc nhiên xen lẫn ngậm ngùi khi mà:
- Nhi đồng tương kiến bất tương thức
- Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai
Dịch thơ:
- Trẻ con thấy lạ không chào
- Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi
Dân gian ta có câu: “Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ”. Trẻ con thì ngây thơ, thật thà, cũng chính vì vậy mà câu hỏi của chúng khiến cho nhà thơ không khỏi đau lòng. Chúng vì lần đầu nhìn thấy ông bởi đã nhiều năm ông không về quê hương, bạn bè cũ hẳn còn nhớ nữa là trẻ con chưa bao giờ gặp mặt. Ông trở thành người “lạ” với những đứa trẻ, cũng chính là với thế hệ sau của dân làng, với chính mảnh đất quê hương mình. Còn nỗi đau nào lại xót xa hơn nỗi đau quay trở lại quê hương của mình mà lại bị coi là “khách”? Ông ở đất khách bao nhiêu năm luôn mong về quê hương, tức là chưa khi nào ông coi nơi mình đang sống là quê cả, ấy vậy mà khi trở về quê lại bị coi là khách, vậy rốt cuộc quê hương ông là ở đâu?
Bài thơ là niềm ngậm ngùi xót xa của một người khát khao về với quê hương mà lại hụt hẫng ngày trở về. Qua đó ta thấy rằng thời gian trôi đi, mọi thứ đều có thể đổi khác, không ai khống chế được, nên khi có thể, đừng trì hoãn lần về với quê hương để mà hối hận xót xa khi không còn được tha thiết như ngày nào.
Vy - vfo.vn
BÀI VĂN 2 CẢM NHẬN BÀI “HỒI HƯƠNG NGẪU THƯ”.
Con người xưa nay luôn mang một nỗi niềm thiên cổ, mang mang thiên cổ sầu, ấy là cảm thấy sự nhỏ bé, hữu hạn của mình trước không gian, thời gian vô cùng. Thời gian tuyến tính, một đi không trở lại, bởi vậy ngoảnh mặt đã thấy già đi. Xa quê, bôn ba khắp bốn phương, trở lại quê nhà, nơi chôn rau cắt rốn, bỗng thấy mình như xa lạ. cảm giác ấy thật xa xót biết bao. Với cảm hứng ấy bài thơ “Hồi hương ngẫu thư” của Hạ Tri Chương đã làm bâng khuâng nhiều thế hệ bạn đọc.
- Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi
- Hương âm vô cải, mấn mao tồi
- Nhi đồng tương kiến, bất tương thức
- Tiểu vấn: khách tòng hà xứ lai?
Ngay nhan đề bài thơ đã thể hiện niềm xúc động dâng trào khi tác giả trở về với mảnh đất đã sinh ra mình mà gần hết cuộc đời nay mới trở lại. Tình cảm nhớ quê luôn thường trực trong lòng tác giả, nhưng phải đến khi đứng trên mảnh đất nơi chôn nhau cắt rốn, tình cảm ấy không thể nén được và trào dâng:
- Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi
- (Khi đi trẻ, lúc về già)
Có ai sinh ra và lớ lên mà không mang trong mình nỗi niềm thương nhớ về mảnh đất quê hương. Tưởng như đó đã trở thành mùi riêng của đất, của quê hương này, ăn sâu vào tiềm thức và tâm thức của mỗi người. Chỉ tiếc lắm khi, xa quê, vì mưu sinh, vì sự nghiệp con người ta dần già rời xa bến đỗ ấy. Đến khi ngoảnh lại bỗng thấy mình như vị khách, đứng trên quê hương mà vẫn thấy nhớ quê hương. Và cảm xúc bâng khuâng, nghẹn ngào thiên liêng như một lười khấn khứa trở đi trở lại rất nhiều trong thơ. ở đây, với Hạ Tri Chương cũng không là ngoại lệ. Nỗi niềm nhớ quê đã trở thành thường trực đau đáu trong lòng. Quê hương trong bài thơ là cố hương. Tác giả xa cách không phải là 3 năm, 15 năm mà là hơn nửa thế kỉ, gần một đời người. Đành rằng cuộc sống chốn Tràng An náo nhiệt, ồn ào, sung túc. Công danh có thành đạt đến mức nào, cái chất quê, cái máu, cái hồn trong ông vẫn không hề thay đổi. Có nỗi đau nào hơn nỗi đau “li gia”. Tuy vậy, ta thấy rằng với tác giả, vui sướng vô cùng là cuối đời còn được hồi hương.
Tuổi trẻ một đi không trở lại. tác giả ở đây, xa quê khi còn trẻ, khi trở về tóc đã bạc mái đầu. Dường như cả một khối ngậm ngùi chau xót biết bao khi ta sinh ra và phải rời bỏ nơi này đến một vùng đất mới. Nhưng dẫu cho dòng thời gian vô thủy, vô chúng có chảy trôi mãi mãi, khiến cho tóc bạc, da mồi, địa vị công danh thay đổi. Nhưng cái cốt cách, cái linh hồn của đất mẹ quê cha vẫn nguyên đó.
- Hương âm vô cải, mấn mao tồi
- (Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao)
Lời nói, giọng quê vẫn không thay đổi, ấy chẳng phải là sự gắn bó với quê hương đó sao. Thật vậy truyền thống văn hoá của gia đình, dân tộc quê hương không dễ gì thay đổi được. Nó được ăn sâu trong máu, trong tâm hồn tác giả. Lý Bạch trên bước đường chống kiếm lãng du xa quê từ nhỏ nhưng ánh trăng nơi quán trọ đã gợi trong ông những kỉ niệm thân thương nhất về quê hương, ánh trăng làm sống dậy một thời gắn bó từ thuở nằm nôi. Hạ Tri Chương cũng vậy, ông sinh ra và lớn lên trong tình yêu thương hết mực của cha mẹ, của quê hương, chỉ có những kẻ bạc tình mới nỡ nhắm mắt quên đi nguồn cội.
Nhưng về tới quê hương một nghịch lý đã xảy ra:
- Nhi đồng tương kiến, bất tương thức
- Tiếu vấn: khách tòng hà xứ lai?
- (Trẻ con nhìn lạ không chào
- Hỏi rằng: khách ở chốn nào lại chơi?)
Một quãng thời gian đủ để cho quên nhớ đời người. Và ở đây vẫn còn thấy một con người son sắt, thủy chung, nặng lòng với mối tình quê. Sau tiếng cười nói ồn ào của lũ trẻ, lòng tác giả không khỏi man mác. Trong con mắt lũ trẻ thì mình là khách lạ, đó là một thực tế bởi khi ông từ giã quê hương thì làm gì đã có chúng. Sau nụ cười tinh nghịch của trẻ thơ là những giọt nước mắt chua cay và sung sướng. Ta là khách lạ! Xa quê gần một đời người nay mới trở lại, ta dù lạ với lũ trẻ thơ như quá đỗi thân thuộc với mảnh đất quê hương. Sung sướng hơn bao giờ hết nhà thơ đang đứng trên mảnh đất quê hương, ông đã thực hiện được tâm nguyện của mình “sống chết với quê hương”. Tình cảm ấy đẹp quá, thiêng liêng quá! Chỉ khi một người yêu quê tha thiết, mới xa xót trước cảnh tượng như vậy. Giọt nước mắt chảy vào trong, trào dâng và âm ỉ trong lòng người con xa quê.
Bằng một tình yêu quê hương tha thiết, tác giả đã làm sống dậy trong lòng ta biết abo cảm xúc thiêng liêng về quê hương, về sự nghịch lí trong cuộc đời. Để cho ta cứ ám ảnh mãi trong mình “một chiếc linh hồn nhỏ-mang mang thiên cổ sầu”.
Thủy - vfo.vn