Thơ Địa danh (Thanh Trắc Nguyễn Văn) 3tgrrU

NHỮNG CÂU CA DAO ĐỊA DANH HAY NHẤT

Ai về Quảng Ngãi mà xem

Bãi tơ vàng óng đồng ken lúa vàng

Xóm thôn sực nức mùi đàng

Nhắp chè Tam Bảo luận bàn văn chương.

Bắp với khoai tuy rằng khác giống

Nhưng cùng sống trên cục đất giồng

Anh với em đồng vợ đồng chồng,

Tát biển Đông cũng cạn, đập núi Hồng cũng tan.

Chim bay về núi Sơn Trà,

Chồng Nam vợ Bắc ai mà muốn xa.

Sự này cũng tại mẹ cha,

Cho nên đũa ngọc mới xa mâm vàng.

Thơ Địa danh (Thanh Trắc Nguyễn Văn) ZCJmOb

Gương kia nỡ để bụi nhòa

Sông có Nhị Hà núi có Tản Viên

Thề kia sao để lỡ duyên

Trăng còn soi mãi vùng sen Tây Hồ.

Hồng Hà nước đỏ như son

Chết đi thì chớ, sống còn lấy anh.

Làng tôi công nghệ đâu bằng

Là làng Triều Khúc ở gần Thanh Xuân

Quai thao tết khéo vô ngần

Là nghề của Vũ sứ thần dạy cho

Tóc rối, lông vịt, mã cò

Bán ra ngoại quốc cũng to mối lời

Khăn san kiểu lối tân thời

Tua cờ nhà đạo, nhà binh

Bán ra Hà Nội, Huế, Vinh, Sài Gòn

Chân chỉ hạt bột y môn

Chỉ tơ, chỉ gốc, lại còn chỉ thêu

Dây đàn, dây rút thật nhiều

Chỉ quả chữ thọ có điều tinh thông

Khéo thay những dải kim tòng

Được bằng thưởng nhất Hà Đông bảo tàng

Phu-la, tơ lụa, đăng ten,

Tiêu thụ các xứ bán buôn thật nhiều

Buồng chơi dùng đệm lông cừu

Hỏi thăm Triều Khúc có nhiều tài hoa

Thắng đai ngựa, chổi lông gà

Thắt lưng, khăn mặt người ta thường dùng

Len đan mũ trẻ ít công

“Tích-cô” dệt máy dùng trong mùa hè

Hoa bằng lông vịt mới kỳ

Giỏ đựng ấm tích bằng tre khéo làm

Nghề kẹo mạ, thợ kim hoàn

Nghề nào cũng giỏi khôn ngoan ai tày

Quai túi dết, sợi giày tây

Vẽ tranh sơn thủy dùng bày phòng chơi

Hơn ba mươi nghệ tân thời

Sĩ, nông, công, cổ mọi người đều hay

Nghề nào cũng khéo chân tay

Nhất thân vinh hiển buổi này cạnh tranh

Đơ Thao Triều Khúc rành rành

Tiếng khen công nghệ nổi danh Bắc Kỳ.

Nón ngựa Gò Găng,

Bún Song thần An Thái,

Lụa đậu từ An Ngãi,

Xoài tượng chín Hưng Long

Mặc ai mơ táo, ước hồng

Tình quê em giữ một lòng bước sau.

Sông Trà Ôn nhiều tôm cá,

Làng Trà Côn đường sá khó đi,

Bơi xuồng mưa gió ngại gì,

Lâu lâu anh rảnh tìm về thăm em.

Trên trời có đám mây vuông

Dưới sông nước chảy như chuông chùa Thầy

Anh về xẻ gỗ cho dày

Bắc cầu sông Cái đón thầy mẹ sang

Chiếu hoa trải xuống sập vàng

Gương tàu một chiếc thiếp chàng soi chung.

Yêu lắm làm chi

Nhớ lắm làm chi

Khi xưa anh nói đổ núi Ba Vì

Bể Đông cạn nước anh cũng nằm kề bên em

Ai xui anh cắt đường duyên

Để em chịu nỗi đắm thuyền bên sông.

(sưu tầm)

Thơ Địa danh (Thanh Trắc Nguyễn Văn) Ixhyi7

Ghi chú: Ảnh của nhiếp ảnh gia Dương Quốc Định, người mẫu Xuân Văn, sưu tầm từ internet