Nỗi lòng được bày tỏ trong bài thơ Thuật Hoài: Cảm xúc trước sức mạnh dân tộc, của thời đại, thanh khi nợ nam nhi chưa trả, Hoài bão lập công danh sự nghiệp của một con người có ta thức trách nhiệm đối với đất nước
Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão là nỗi "thẹn" cao cả, mang giá trị nhân cách
Phạm ngũ lão thẹn vì chí làm trai chưa được thực hiện. Chí làm trai của Phạm Ngũ Lão mang quan niệm lí tưởng thời phong kiến, nhưng kẻ khía cạnh tích cực; lập công, lập danh. Chí làm trai lúc bấy giờ có tác dụng cổ vũ con người thoát khỏi cuộc sống tầm thường, ích kỉ, bàng quan giữa con người với đất nước, dân tộc. Nêu cao tinh thần của kẻ sĩ thời bấy giờ là hi sinh chiến đấu cho sự nghiệp lớn/ sự nghiệp cứu nước, cứu dân "cùng trời muôn đời bất hủ"
Thuật Hoài
Phiên âm:
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu,
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu.
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu
Dịch nghĩa:
Cầm ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu,
Ba quân như hổ bảo, khí thế hùng dũng nuốt trôi trâu.
Thân nam nhi mà chưa trả xong nợ công danh,
Thì luống thẹn thùng khi nghe người đời kể chuyện Vũ hầu.
Dịch thơ:
Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu.
Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu
Vũ hầu: Tức Gia Cát Lượng, người thời Tam Quốc, có nhiều công lao giúp Lưu Bị khôi phục nhà Hán, được phong tước Vũ Lượng hầu thường gọi tắt là Vũ hầu
Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão là nỗi "thẹn" cao cả, mang giá trị nhân cách
Phạm ngũ lão thẹn vì chí làm trai chưa được thực hiện. Chí làm trai của Phạm Ngũ Lão mang quan niệm lí tưởng thời phong kiến, nhưng kẻ khía cạnh tích cực; lập công, lập danh. Chí làm trai lúc bấy giờ có tác dụng cổ vũ con người thoát khỏi cuộc sống tầm thường, ích kỉ, bàng quan giữa con người với đất nước, dân tộc. Nêu cao tinh thần của kẻ sĩ thời bấy giờ là hi sinh chiến đấu cho sự nghiệp lớn/ sự nghiệp cứu nước, cứu dân "cùng trời muôn đời bất hủ"
Thuật Hoài
Phiên âm:
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu,
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu.
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu
Dịch nghĩa:
Cầm ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu,
Ba quân như hổ bảo, khí thế hùng dũng nuốt trôi trâu.
Thân nam nhi mà chưa trả xong nợ công danh,
Thì luống thẹn thùng khi nghe người đời kể chuyện Vũ hầu.
Dịch thơ:
Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu.
Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu
Vũ hầu: Tức Gia Cát Lượng, người thời Tam Quốc, có nhiều công lao giúp Lưu Bị khôi phục nhà Hán, được phong tước Vũ Lượng hầu thường gọi tắt là Vũ hầu