Tu viện Sion (1)- một hội kín ở châu Âu được thành lập năm 1099 - là một tổ chức có thật.

Năm 1975, Thư viện Quốc gia Pháp ở Paris phát hiện thấy những văn bản trên giấy da, được gọi là Les Dossiers Secrects (Hồ sơ bí mật) xác nhận một số thành viên của Tu viện Sion, trong đó có Ngài Isaac Newton, Botticelli, Victor Hugo và Leonardo da Vinci.

Giám mục đoàn Vatican, được gọi là Opus Dei (Tác phẩm của Thượng Đế), là một giáo phái Thiên Chúa sùng tín sâu sắc và dã là một dề tài tranh cãi gần đây do những tin về việc tẩy não, cưỡng bách và một tục lệ gọi là "hành xác". Opus Dei vừa hoàn thành xây dựng một tổng hành dinh trị giá 47 triệu đô la ở số 243 Đại lộ Lexington, New York.

Mọi sự mô tả các tác phẩm nghệ thuật, kiến trúc, tài liệu và lễ thức bí mật trong tiểu thuyết này đều xác thực.

Mở đầu

Bảo tàng Louvre

10g 46’ tối

Jacques Saunière, người phụ trách nổi tiếng của Bảo tàng Louvre, loạng choạng qua cửa tò vò có mái vòm trong Hành Lang Lớn của Bảo tàng. Ông lao tới bức tranh gần nhất ông có thể nhìn thấy, một bức Caravaggio. Nắm lấy vành khung dát vàng, ông già bảy mươi sáu tuổi nhấc bức kiệt tác kéo về phía mình cho đến khi nó bật tung khỏi tường, và Saunière ngã ngật người dưới tấm toan.

Như ông đã tính trước, một cánh cổng sắt đổ đánh rầm ngay gần đó, chặn lối vào dãy hành lang. Sàn gỗ rung lên. Đằng xa, chuông báo động bắt đầu ré lên.

Ông phụ trách bảo tàng nằm yên một lúc, thở hổn hển, nhận định tình hình. Mình vẫn còn sống. Ông trườn ra từ phía dưới bức tranh và nhìn trân trân vào khoảng trống hoác xem có nơi nào ẩn trốn được.

Một giọng nói cất lên, gần đến ớn lạnh: "Không được động đậy".

Trong tư thế bò, ông phụ trách bảo tàng sững người, từ từ quay đầu lại.

Chỉ cách ông khoảng năm mét, bên ngoài cánh cổng chặn lối, cái bóng khổng lồ của kẻ tấn công chằm chằm nhìn qua song sắt. Hắn to cao, nước da trắng trợt như ma và mái tóc bạch kim thưa. Tròng mắt hồng với đồng tử đỏ sậm. Gã bạch tạng rút từ áo khoác ra một khẩu súng lục và chĩa nòng súng qua chấn song thẳng vào ông phụ trách bảo tàng: "Đáng lẽ vừa nãy, ông không nên chạy". Giọng hắn không dễ gì xác định được là người vùng nào: "Giờ thì nói cho tôi biết nó ở đâu".

"Tôi đã nói với ông rồi", ông phụ trách bảo tàng lắp bắp, quỳ chơ vơ trên sàn Hành Lang Lớn. "Tôi không biết ông nói về chuyện gì nữa".

"Ông nói dối?". Hắn nhìn ông chằm chằm, bất động hoàn toàn trừ tia sáng lóe lên trong dôi mắt ma quỷ. "Ông và các đạo hữu của ông sở hữu thứ gì đó không phải của mình".

Robert Langdon từ từ tỉnh giấc. Điện thoại reo trong bóng tối- tiếng chuông leng keng nghe lạ lẫm. Ông dò dẫm tìm ngọn đèn cạnh gi.ường và bật lên. Nheo mắt nhìn xung quanh ông nhận thấy đó là một phòng ngủ kiểu Phục Hưng sang trọng với đồ đạc theo phong cách thời Louis XVI với những tranh vẽ thẳng lên tường, và một chiếc gi.ường gỗ gụ đồ sộ bốn cột.

Mình đang ở chỗ quái quỷ nào thế này?

Chiếc áo tắm mắc trên cột gi.ường mang dòng chữ: Hotel Ritz Paris.

Màn sương tan dần.

Langdon nhấc ống nghe: "Hello?".

"Ông Langdon phải không ạ?", một giọng đàn ông vang lên. "Tôi hy vọng là không đánh thức ông chứ ạ?".

Ngạc nhiên, Langdon nhìn đồng hồ cạnh gi.ường. 0 giờ 32’ sáng. Ông mới ngủ được một tiếng mà cảm thấy như lâu lắm.

"Tôi là người trực khách sạn, thưa ông. Tôi xin lỗi vì sự đường đột này, nhưng có một vị khách khăng khăng đòi gặp ông, nói là có việc khẩn cấp".

Langdon vẫn cảm thấy lơ mơ. Một vị khách? Tia mắt ông tập trung vào một tờ bướm bị vò nhàu trên bàn cạnh gi.ường.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ TẠI PARIS

Trân trọng giới thiệu

MỘT TỐI GẶP GỠ VỚI ROBERT LANGDON

GIÁO SƯ KHOA KÝ TƯỢNG TÔN GIÁO, ĐẠI HỌC HARVARD

Langdon hầm hừ. Buổi thuyết giảng tối nay - một bài giảng về hệ ký tượng vô tôn giáo ẩn chứa trong các phiến đá của Nhà thờ lớn Chartres, có minh họa bằng phim đèn chiếu - chắc đã làm xù lông một vài vị bảo thủ trong đám thính giả. Rất có thể là một học giả nghiên cứu tôn giáo nào đó đã bám theo ông về tận khách sạn để đòi tranh luận.

"Tôi xin lỗi", Langdon nói, "nhưng tôi rất mệt và…".

"Mais monsieur" (1) người trực khách sạn nằn nì, hạ thấp giọng xuống thành một tiếng thì thào khẩn thiết, "vị khách này là người rất quan trọng".

Langdon hơi nghi ngờ. Các cuốn sách của ông về tranh tôn giáo và ký tượng thờ cúng đã làm ông nổi danh trong giới nghệ thuật khiến mọi người miễn cưỡng phải công nhận ông và năm ngoái danh tiếng của Langdon đã tăng lên gấp trăm lần sau khi ông tham gia vào một sự kiện được công chúng biết đến rộng rãi ở Vatican. Từ đó, các nhà sử học và chuyên gia nghệ thuật tự cao tự đại nườm nượp kéo đến nhà ông không ngớt.

"Xin ông vui lòng", Langdon nói, cố gắng hết sức để giữ lịch sự "ghi lại tên và số điện thoại của vị khách đó, và nói với ông ta rằng tôi sẽ cố gắng gọi lại cho ông ta trước khi tôi rời Paris vào thứ ba. Cảm ơn ông". Ông gác máy trước khi người trực khách sạn kịp phản đối.

Lúc này Langdon đã ngồi dậy, ông cau mày nhìn cuốn Sổ tay liên hệ với khách có bìa ghi những lới huênh hoang: "Hãy ngủ như một hài nhi ở Kinh đô ánh sáng. Hãy liên hệ với khách sạn Ritz Paris". Ông quay đầu và nhìn một cách mệt mỏi vào tấm gương soi cả người ở đầu kia căn phòng. Người đàn ông đang nhìn ông là một người xa lạ - tóc tai rối bù và mệt mỏi.

Anh bạn cần một kỳ nghỉ đấy, Robert.

Năm làm việc vừa qua đã làm ông tiêu hao sức lực nặng nề, nhưng ông không khoái nhìn thấy bằng chứng của điều đó trong gương. Đôi mắt màu xanh thường ngày sắc sảo đêm nay có vẻ lờ đờ và mệt mỏi. Một lớp râu đen lởm chởm phủ kín quai hàm khỏe và cái cằm chẻ. Quanh thái dương, những sợi hoa râm đang tăng lên, thâm nhập sâu hơn vào mái tóc đen dày. Mặc dù các đồng nghiệp nữ một mực nói rằng tóc bạc chỉ làm tôn thêm sức quyến rũ bác học của ông, nhưng Langdon thừa biết là đâu phải thế.

Giá Boston Magazine nhìn thấy mình lúc này.

Tháng trước, Langdon rất bối rối khi tờ BostonMagazine xếp ông vào danh sách mười người đàn ông hấp dẫn nhất thành phố - một vinh dự đáng ngờ khiến ông trở thành mục tiêu trêu chọc không dứt của các đồng nghiệp ở trường Harvard. Tối nay, ở cách xa đất nước ba ngàn dặm, sự đề cao đó vẫn trở lại ám ảnh ông ngay trong buổi thuyết giảng ông vừa thực hiện.

"Thưa quý ông quý bà…", người giới thiệu tuyên bố trước thính phòng đầy ắp của Cung Dauphine trường Đại học Mỹ ở Paris. "Khách mời tối nay của chúng ta chắc tôi không cần giới thiệu. Ông là tác giả của nhiều cuốn sách: Hệ ký hiệu của các giáo phái bí mật, Nghệ thuật của dòng Chúa khai sáng, Ngôn ngữ tượng hình thất truyền, và khi tôi nói ông đã viết cuốn Khoa nghiên cứu thánh tượng và hình ảnh tôn giáo, là nói đúng theo nghĩa đen. Nhiều người trong số các bạn đang dùng những giáo trình của ông trên lớp".

Các sinh viên trong đám đông gật đầu nhiệt liệt tán thưởng.

"Tối nay tôi đã định giới thiệu ông bằng cách chia sẻ với các bạn lý lịch đầy ấn tượng của ông. Tuy nhiên…", cô ta tinh nghịch nhìn Langdon, lúc này ông đã ngồi trên sân khấu, "một khán giả vừa đưa cho tôi một lời gìới thiệu… có thể nói là… hấp dẫn hơn nhiều".

Cô ta giơ lên một số Boston Magazin.

Langdon co rúm người lại. Cô ta kiếm đâu ra cái của nợ này?

Người giới thiệu bắt đầu đọc những đoạn trích chọn lọc từ bài báo sáo rỗng kia và Langdon cảm thấy mình càng lúc càng lún sâu thêm trong ghế. Ba mươi giây sau, đám đông nhăn nhở cười và người phụ nữ kia không hề tỏ dấu hiệu muốn dừng lại:

"Và việc ông Langdon từ chối công bố vai trò đặc biệt của ông trong cuộc họp kín bầu Giáo hoàng ở Vatican năm ngoái chắc chắn sẽ ghi thêm điểm cho ông trên hấp-dẫn-kế của chúng ta".

Người giới thiệu kích động đám đông: "Các bạn có muốn nghe thêm không?".

Đám đông vỗ tay tán thưởng.

Ai đó hãy ngăn cô ta lại, Langdon thầm cầu xin khi cô ta lại đọc tiếp bài báo.

"Dù Giáo sư Langdon có thể không được xem là người đẹp trai tuyệt vời như một vài người được bầu chọn trẻ hơn, nhưng vị giáo sư ngoài bốn mươi tuổi này có cái gì đó ngoài phong độ học giả của ông. Vẻ ngoài quyến rũ của ông được tôn thêm bởi giọng nói trầm và âm nam trung hiếm có, điều mà các sinh viên nữ miêu tả là "ngọt như mía lùi".

Cả phòng cười phá lên.

Langdon cố gượng cười vụng về. Ông biết điều gì sẽ xảy ra tiếp theo - lại một tràng những câu lố bịch kiểu "Harrison Ford trong chiếc áo tuýt hiệu Harris" - và bởi vì tối nay ông mặc áo tuýt hiệu Harris và áo cao cổ hiệu Burberry, nên ông quyết định hành động.

"Cảm ơn, Monique". Langdon nói, vội vã đứng lên và đảy cô ta ra khỏi bục diễn đàn, "Boston Magazine quả có năng khiếu hư cấu". Ông quay về phía cử tọa với một tiếng thở dài bối rối.

"Và nếu tôi tìm ra ai trong số các bạn đã cung cấp bài báo đó, tôi sẽ bảo tổng lãnh sự trục xuất các bạn".

Đám đông cười rộ.

"Vậy thưa các bạn, như các bạn đã biết, tối nay tôi tới đây để nói về quyền năng của biểu tượng…".

Chuông điện thoại trong phòng khách sạn của Langdon một lần nữa lại phá tan im lặng.

Càu nhàu, bán tín bán nghi, ông nhấc máy: "Vâng?".

Quả nhiên, lại là người trực khách sạn: "Ông Langdon, một lần nữa xin lỗi ông. Tôi gọi để thông báo với ông rằng vị khách của ông bây giờ đang trên đường đến phòng ông. Tôi nghĩ là nên báo trước cho ông".

Langdon lúc này đã tỉnh hắn: "Ông cho phép ai đó đến phòng của tôi?".

"Tôi xin lỗi, thưa ông, nhưng một người như vậy…tôi không dám mạo quyền ngăn lại!".

"Chính xác thì ông ta là ai?".

Nhưng người trực khách sạn đã gác máy.

Gần như ngay lập tức, một nắm tay nặng nề đập cửa phòng Langdon thình thình.

Phân vân, Langdon tụt khỏi gi.ường, cảm thấy những ngón chân nhấn sâu trên tấm thảm. Ông mặc áo choàng của khách sạn và đi tới cửa: "Ai?".

"Ông Langdon? Tôi cần nói chuyện với ông". Tiếng Anh của người này trọ trẹ - một giọng sủa gắt, hách dịch. "Tôi là trung uý Jérôme Collet. Direction (2) DCP.

Langdon dừng lại. Cục cảnh sát Pháp. Đại loại như FBI của Mỹ.

Vẫn để nguyên dây xích an toàn, Langdon hé cửa ra vài phân. Gương mặt đối diện ông mỏng và nhợt nhạt. Người đàn ông gầy khác thường này mặc một bộ đồng phục màu xanh chính quy.

"Tôi có thể vào được không?", viên cảnh sát hỏi.

Langdon do dự, cảm thấy không thoải mái khi đôi mắt xám của người lạ mặt nhìn ông chăm chú: "Chuyện này là thế nào?".

"Capitaine (3) của tôi cần đến sự giám định của ông trong một vấn đề riêng tư".

"Ngay bây giờ?". Langdon hỏi. "Đã quá nửa đêm rồi".

"Ông có một buổi hẹn gặp mặt với ông phụ trách bảo tàng Louvre tối nay, đúng không?".

Langdon chợt cảm thấy bồn chồn. Ông và ông phụ trách bảo tàng đáng kính Jacques Saunière đã sắp xếp chương trình gặp nhau uống chút gì sau buổi thuyết giảng tối nay của ông, nhưng Saunière đã không đến. "Vâng. Làm thế nào mà ông biết chuyện đó?".

"Chúng tôi thấy tên ông trong sổ ghi công việc hàng ngày của ông ấy".

"Chắc không có gì bất ổn chứ?".

Viên cảnh sát buông một tiếng thở dài dễ sợ và luồn một tấm ảnh chụp lấy ngay Polaroid qua khe cửa hé mở.

Khi Langdon thấy tấm ảnh, toàn thân ông cứng sững.

"Tấm ảnh này được chụp cách đây chưa đầy một tiếng. Trong bảo tàng Louvre".

Khi Langdon nhìn kỹ hình ảnh kì quái đó, sự ghê tởm và choáng váng ban đầu nhường chỗ cho một cơn giận trào lên đột ngột: "Ai có thể làm chuyện này?".

"Chúng tôi hy vọng ông có thể giúp chúng tôi trả lời chính câu hỏi đó, bằng kiến thức của ông về khoa ký tượng học và việc ông định gặp ông ấy".

Langdon trân trân nhìn tấm ảnh, sự kinh tởm giờ đây hoà cùng nỗi sợ hãi. Hình ảnh khủng khiếp và quái lạ đó kèm theo một cảm giác bất an về một điều đã thấy ở đâu đó. Hơn một năm trước, Langdon nhận được tấm ảnh một xác chết và một lời đề nghị giúp đỡ tương tự. Hai mươi tư giờ sau, ông suýt mất mạng trong thành phố Vatican. Bức ảnh này hoàn toàn khác, tuy nhiên có một cái gì quen thuộc trong kịch bản khiến ông lo lo.

Viên cảnh sát nhìn đồng hồ: "Capitane của tôi đang chờ, thưa ông".

Langdon chỉ nghe thấy loáng thoáng. Mắt ông vẫn dán vào bức ảnh. "Cái biểu tượng này và cách đặt thi thể ông ấy thật kỳ lạ…".

"Vị trí?" Viên cảnh sát hỏi.

Langdon gật đầu, cảm thấy ớn lạnh khi ông ngẩng lên:

"Tôi không thể tưởng tượng là ai có thể làm việc này đối với người khác".

Viên cảnh sát có vẻ nghiêm nghị: "Ông không hiểu sao, ông Langdon. Những gì ông nhìn thấy trong bức ảnh này…", anh ta dừng lại, "Ông Saunière đã tự làm điều đó với chính mình".

Chú thích:

(1) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Nhưng thưa ông

(2) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Cục Cảnh sát tư pháp trung ương.

(3) Tiếng Pháp trong nguyên bản: đại úy

Cách có một dặm, tên bạch tạng to con có tên Silas tập tễnh qua cổng trước của tòa nhà bằng đá xám sang trọng ở phố La Bruyère. Chiếc dây lưng hành xác bằng vải canh có ngạnh mà hắn quấn quanh bắp đùi cứa vào thịt hắn, nhưng tâm hồn hắn lại đang ca hát với niềm thỏa mãn với việc phụng sự Chúa.

Đau đớn là tốt.

Đôi mắt đỏ ngàu của hắn rà khắp sảnh khi hắn vào nhà. Vắng tanh. Hắn lặng lẽ lên cầu thang, không muốn đánh thức ai trong số bạn đồng môn. Cửa phòng ngủ của hắn mở, việc khóa cửa ở đây bị cấm. Hắn vào phòng, đóng cửa lại sau lưng.

Căn phòng rất đơn giản- sàn gỗ cứng, một cái tủ áo bằng gỗ thông, một cái chiếu vải bạt ở trong góc dùng làm gi.ường ngủ.

Hắn là khách ở đây trong tuần này, nhưng nhiều năm nay, hắn có ân phước được ở một thánh đường tương tự ở New York City.

Chúa cho ta chỗ ở và lẽ sống cho cuộc đời ta.

Cuối cùng, tối nay, Silas cũng cảm thấy bắt đầu đễn đáp được món nợ đó. Hối hả chạy đến tủ áo, hắn tìm chiếc điện thoại di động giấu dưới ngăn đáy và bấm số gọi.

"Hử?" Một giọng đàn ông trả lời.

"Trình Thầy, con đã trở về".

"Nói đi", giọng nói kia ra lệnh, có vẻ hài lòng khi nghe hắn nói.

"Cả bốn đều đã chết. Ba pháp quan… và cả Đại sứ".

Giọng nói ngừng lại trong chốc lát, như để cầu nguyện: "Vậy ta chắc ngươi đã lấy được thông tin?".

"Cả bốn đều nói giống nhau. Riêng rẽ từng người".

"Và ngươi tin chúng?".

"Họ nói y hệt nhau nên không thể là sự trùng hợp ngẫu nhiên".

Một nhịp thở phấn khích: "Tuyệt. Hội kín này nổi tiếng là kiên định bảo vệ bí mật, ta đã lo chúng nêu cao tinh thần ấy".

"Cái chết kề cổ là một động cơ mạnh mẽ buộc họ phải nói ra".

"Vậy thì, học trò của ta, hãy nói những gì ta cần phải biết".

Silas biết những thông tin hắn lượm đưọc từ những nạn nhân của hắn sẽ là một cú sốc: "Thưa Thầy, cả bốn đều khẳng định sự tồn tại của viên đá đỉnh vòm… viên đá đỉnh vòm trong truyền thuyết".

Hăn nghe thấy tiếng hít sâu bên kia đầu dây và có thể cảm thấy sự phấn khích của Thầy: "Viên đá đỉnh vòm. Đúng như chúng ta đã ngờ ngợ".

Theo truyền thuyết, hội kín này đã tạo ra một bản đồ bằng đá - một viên đá đỉnh vòm - và khắc vào đó bảng chỉ dẫn tới vị trí cuối cùng của bí mật lớn nhất của tổ chức… thông tin này có quyền lực lớn đến mức sự bảo vệ nó chính là lý do tồn tại của hội.

"Khi chúng ta có được viên đá đỉnh vòm". Thầy Giáo nói, "thì chỉ còn cách bí mật đó một bước".

"Chúng ta đang ở gần hơn Thầy nghĩ đấy ạ. Viên đá đỉnh vòm đó ở đây, tại Paris này".

"Tại Paris? Thật không thể tin được. Vậy thì quá dễ".

Silas lần lượt kể lại những sự kiện hồi đầu buổi tối… cả bốn nạn nhân của hắn, ít phút trước khi chết, đã cố gắng tuyệt vọng như thế nào để hòng giữ cái mạng sống vô đạo lý của họ bằng cách nói ra bí mật. Mỗi người đều khai với Silas cùng một điều y hệt nhau - rằng viên đá đỉnh vòm đã được giấu khéo léo ở một vị trí trong một nhà thờ cổ của Paris- Nhà thờ Saint- Sulpice.

"Bên trong một ngôi nhà của Chúa", Thầy Giáo la lên, "Chúng giễu chúng ta làm sao!".

"Như chúng đã làm thế từ nhiều thế kỷ nay".

Thầy Giáo im lặng như để niềm đắc thắng của giây phút này tràn ngập mình. Cuối cùng, ông ta nói: "Con đã làm một việc lớn phụng sự Chúa. Chúng ta đã chờ đợi điều này nhiều thế kỷ. Con phải lấy lại viên đá đó cho ta. Ngay lập tức. Đêm nay.

"Con biết số tiền thưởng rồi đấy".

Silas biết số tiền thưởng nhiều không đếm xuể, tuy nhiên điều Thầy Giáo ra lệnh có vẻ là bất khả thi. "Nhưng nhà thờ đó là một pháo đài, nhất là vào ban đêm. Con sẽ vào bằng cách nào?".

Với giọng tự tin của một người có thế lực lớn, Thầy Giáo giảng giải những việc phải làm.

Khi Silas gác máy, da hắn râm ran đợi.

Một giờ, hắn tự bao, thầm cảm ơn Thầy đã cho hắn thời gian để thực hiện sự sám hối cần thiết trước khi bước vào một ngôi nhà của Chúa. Mình phải gột rửa linh hồn khỏi những tội lỗi của ngày hôm nay. Những tội lỗi hắn phạm phải trong ngày hôm nay có mục đích thiêng liêng. Người ta đã phạm những hành động chiến tranh trong nhiều thế kỷ để chống lại kẻ thù của Chúa.

Sự tha thứ đã được đảm bảo.

Mặc dù thế, Silas biết sự miễn xá đòi hỏi hy sinh.

Kéo rèm che, hắn cời quần áo và quỳ xuống giữa phòng.

Nhìn xuống, hắn kiểm tra chiếc dây lưng hành xác cột quanh bắp đùi. Tất cả những môn đồ chân chính theo Đạo đều mang vật này- một dây da có găm những ngạnh kim loại sắc cứa vào thịt như một nhắc nhở thường xuyên về khổ đau của Chúa. Sự đau đớn gây ra bởi vật này cũng giúp họ chống lại những dục vọng về xác thịt.

Mặc dù Silas đã đeo vật này lâu hơn yêu cầu hai tiếng, hắn biết hôm nay không phải là một ngày bình thường. Nắm lấy chiếc khóa. hắn xiết chặt nó lại thêm mộl nấc nữa, nhăn mặt khi những ngạnh sắc đâm sâu hơn vào d.a thịt. Thở ra từ từ, hắn khoan khoái tiếp nhận lễ thức thanh lọc bằng đau đớn.

Đau đớn là tốt. Silas thì thầm, nhắc lại những lời thiêng liêng của Cha Josemaria Escrivá - Người Thầy của mọi Thầy. Dù Escrivá đã chết năm 1975, minh triết của ông vẫn sống mãi, những lời của ông vẫn được hàng nghìn tôi tớ trung thành của Chúa trên toàn thế giới nhắc tới khi họ quỳ gối trên sàn để thực hành cái thông lệ thiêng liêng gọi là "tự hành xác".

Silas chuyển sự chú ý đến sợi dây thừng to thắt nút cuộn gọn gàng đặt trên sàn bên cạnh. Kỷ luật. Những nút thắt bết máu khô.

Khao khát được thấy tác dụng gột rửa của nỗi đau đớn của chính mình. Silas đọc nhanh một lới cầu nguyện. Sau đó, nắm chặt một đầu sợi dây, hắn nhắm mắt và vung sợi dây qua vai, cảm nhận những nút thắt quất mạnh vào lưng. Hắn lại giật nó qua vai, quất mạnh vào thịt hắn. Giật đi, giật lại! cứ thế hắn quất hoài.

Castigo corpus meum (1)

Cuối cùng, hắn cảm thấy máu bắt đầu chảy.

Chú thích:

(1) Tiếng La-tinh: Trừng phạt th.ân thể tôi, tự hành xác

Không khí khô hanh tháng tư táp qua cửa xe để mở cửa chiếc Citroen ZX khi nó theo hướng Nam qua Nhà hát ôpêra và Quảng trường Vendôme. Ngồi ở ghế cạnh ghế tài xế, Langdon cảm thấy thành phố vùn vụt qua trong khi ông cố soạn lại ý nghĩ của mình cho rành rọt tỏ tường. Sau khi tắm và cạo râu ù một cái, nom ông đã tương đối bảnh, nhưng trong lòng vẫn không nguôi lo lắng. Những hình ảnh đáng sợ về thi thể của ông phụ trách bảo tàng vẫn chốt lại trong tâm trí ông.

Jacques Saunière đã chết.

Langdon không khỏi cảm thấy sâu sắc sự mất mát to lớn với cái chết của người phụ trách bảo tàng. Mặc dù Saumère có tiếng là ưa biệt lập, nhưng sự công nhận đối với lòng tận tụy vì nghệ thuật của ông đã khiến ông được kính yêu. Những cuốn sách của ông về những mật mã bí mật ẩn chứa trong những bức họa của Poussin và Teniers nằm trong số những giáo trình ưa thích của Langdon.

Cuộc gặp mặt tối nay là điều mà Langdon rất mong đợi, và ông đã rất thất vọng khi ông phụ trách bảo tàng không xuất hiện.

Một lần nữa hình ảnh thi thể của người phụ trách bảo tàng vụt hiện lên trong tâm trí ông. Jacques Saunière đã làm điều đó với chính mình sao? Langdon quay đầu và nhìn qua cửa xe, cố xua hình ảnh đó ra khỏi tâm trí.

Bên ngoài, thành phố đang ngơi nghỉ - những người bán hàng rong đang đẩy những chiếc xe chở hạnh đào ướp đường, các bồi bàn mang bao rác ra vỉa hè, một đôi tình nhân ấp ủ nhau để giữ ấm trong gió nhẹ hòa quyện với hương hoa nhài.

Chiếc Citroen uy nghi đi giữa hỗn độn, tiếng còi hai âm chối tai sẻ đôi dòng xe cộ như một lưỡi dao.

"Capitaine rất hài lòng khi biết ông vẫn còn ở Paris tối nay", viên cảnh sát nói, lần đầu tiên mở lời kể từ lúc họ rời khách sạn. "Một sự trùng hợp may mắn".

Langdon tuyệt nhiên không hề cảm thấy may mắn, và sự trùng hợp là một khái niệm mà ông không hoàn toàn tin tưởng.

Là một người dành cả đời để khảo sát tính tương liên tàng ẩn giữa những biểu tượng và ý thức hệ khác hẩn nhau, Langdon xem thế giới như một mạng lưới bện xoắn những lịch sử và sự kiện một cách sâu sắc. Những mối liên hệ có thể là vô hình, ông thường hay giảng vậy cho các lớp khoa ký tượng học tại trường Harvard, nhưng chúng luôn ở đó, lấp ngay dưới bề mặt "Tôi đoán". Langdon nói, "rằng Trường Đại học Mỹ ở Paris đã nói cho các ông biết chỗ tôi đang ở".

Người lái xe lắc đầu: "Interpol".

Interpol (Cảnh sát quốc tế), Langdon nghĩ thầm. Tất nhiên rồi. ông đã quên mất rằng yêu cầu có vẻ vô hại của tất cả các khách sạn châu Âu đòi xem hộ chiếu khi nhận phòng còn quan trọng hơn một thủ tục kỳ quái - nó là luật. Vào bất kỳ buổi tối nào, trên toàn châu Âu, các quan chức Interpol có thể định vị chính xác ai đang ngủ ở đâu. Việc tìm ra Langdon ở khách sạn Ritz chắc chắn chỉ mất năm giây.

Khi chiếc Citroen tăng tốc độ hướng về phía Nam thành phố, mặt nghiêng sáng rực của tháp Eifíel hiện ra, đâm thẳng lên trời ở phía bên phải. Thấy nó, Langdon nghĩ tới Vittoria, chợt nhớ lời hứa hẹn vui giữa hai người một năm trước rằng cứ sáu tháng một lần, họ sẽ gặp lại nhau tại một địa điểm lãng mạn khác nhau trên thế giới. Tháp Eiffel, Langdon nghĩ, có thể cũng nằm trong danh sách của họ. Buồn thay, lần cuối cùng ông hôn Vittoria là ở một sân bay náo nhiệt tại Roma cách đây hơn một năm.

"Ông đã trèo lên bụng nó chưa?", viên cảnh sát liếc mắt hỏi.

Langdon ngước lên, chắc chắn là mình (1). "Xin lỗi, tôi nghe chưa rõ?".

"Đẹp tuyệt vời phải không?" Viên cảnh sát hất hàm qua kính chắn gió về phía tháp Eiffel. "Ông đã từng leo lên đó chưa?".

Langdon đảo mắt: "Chưa, tôi chưa từng trèo lên tháp".

"Đó là biểu tượng của nước Pháp. Tôi nghĩ nó thật hoàn hảo".

Langdon lơ đãng gật đầu. Các nhà ký tượng học thường nhận xét rằng Pháp - một đất nước nổi tiếng về thói tự đắc với cái chất đàn ông của mình, về thói giăng hoa và về những lãnh tụ tướng ngũ đoản như Napoléon và Pepin Lùn - ắt không thể chọn một biểu tượng quốc gia nào thích hợp hơn một cái d.ương v.ật cao cả ngàn mét.

Khi họ tới ngã tư phố Rivoli, đèn giao thông bật đỏ, nhưng chiếc Citroen không đi chậm lại. Viên cảnh sát nhấn ga cho chiếc xe nhỏ vọt qua ngã tư và tăng tốc đi vào khu vực nhiều cây cối của phố Castiglion, lối vào phía Bắc của Vườn Tuileries nổi tiếng - một thứ Central Park của Paris. Hầu hết khách du lịch đều dịch nhầm cụm từ Jardil des tuileries là có liên quan đến cảnh hàng nghìn bông hoa tulip nở rộ ở đây, nhưng thực tế Tuileries liên quan đến một vài điều ít lãng mạn hơn nhiều.

Công viên này từng là một cái hố mênh mông, rất ô nhiễm mà từ nó, các nhà thầu khoán ở Paris đã đào đất sét để sản xuất những viên ngói đỏ nổi tiếng của thành phố, gọi là tuiles.

Khi vào trong công viên trống vắng, viên cảnh sát với tay xuống dưới bảng điều khiển, tắt cái còi đang rú ầm ĩ. Langdon thở phào, thưởng thức sự im lặng đột ngột. Bên ngoài chiếc xe, ánh sáng nhạt của những ngọn đèn pha halôgien lướt trên con đường rải sỏi vụn, tiếng lốp xe nghiến lạo xạo thành một nhịp ru ngủ. Langdon luôn coi khu vườn này như một nơi linh thiêng. Đây là khu vườn mà (2) đã thể nghiệm khối hình và màu sắc, và thực sự truyền cảm hứng cho sự ra đời của trào lưu ấn tượng chủ nghĩa. Tối nay, tuy nhiên, chỗ này lại mang một hào quang khác thường của điềm gở.

Chiếc Citroen lúc này rẽ trái, chếch hướng tây, xuôi đại lộ trung tâm của công viên. Đang chạy quanh một cái hồ hình tròn, người lái xe cắt ngang qua một đại lộ vắng vẻ và đi vào một cái sân rộng mở ra bên ngoài. Langdon giờ đây có thể nhìn thấy chỗ cuối của Vườn Tuileries, đánh dấu bởi một cổng tò vò lớn bằng đá gọi là Arc du Carrousel.

Mặc dù những lễ thức truy hoan đã từng được tổ chức ở Arc du Carrousel, những người hâm mộ nghệ thuật sùng kính nơi này vì một lý do hoàn toàn khác. Từ nơi dạo mát ở cuối Vườn Tuilenes, người ta có thể nhìn thấy bốn trong số những bảo tàng nghệ thuật tuyệt với nhất trên thế giới… ở bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc.

Nhìn ra ngoài cửa xe bên phải, theo hướng nam bên kia sông Seine và Bến Voltaire, Langdon có thể thấy mặt ngoài sáng trưng của nhà ga xe lửa cũ - nay là Bảo tàng Orsay sang quý.

Đưa mắt sang trái, Langdon có thể thấy đỉnh của Trung tâm Pompidou tối tân, là nơi đặt Bảo tàng nghệ thuật hiện đại.

Đằng sau ông về phía tây, Langdon biết đó là đài tưởng niệm cổ xưa của Ramses vươn lên trên cây cối, đánh dấu chỗ của Bảo tàng Jeu de Paume.

Thẳng trước mặt, về hướng Đông, qua cái cổng tò vò, Langdon có thể nhìn thấy tòa lâu đài kiểu Phục Hưng làm bằng đá nguyên khối giờ đây đã trở thành một trong những lâu đài nghệ thuật nổi tiếng nhất trên thế giới.

Bảo tàng Louvre.

Langdon cảm thấy ngàng thường thấy khi mắt ông cố gắng tột bậc vẫn không bao quál hết toàn bộ khối nhà đồ sộ. Bên kia một plaza (3) rộng mênh mông, mặt tiền uy nghi của Louvre vút lên như một tòa thành trên nền trời Paris.

Được tạo hình như một cái móng ngựa khổng lồ, Bảo tàng Louvre là tòa nhà dài nhất châu Âu, dài hơn ba cái tháp Eiffel nối liền với nhau. Thậm chí, cả mười vạn mét (4) diện tích của cái plaza nằm giữa hai cánh của tòa nhà cũng không đọ nổi sự bề thế của chiều ngang tòa nhà. Langdon đã từng đi bộ quanh toàn bộ Louvre, một chuyến đi dài ba dặm đầy thú vị.

Mặc dù, theo ước tính, một khách thăm quan phải mất khoảng năm tuần mới chiêm ngưỡng hết toàn bộ 65.500 tác phẩm nghệ thuật trong tòa nhà này, phần lớn du khách đều chọn con đường rút ngắn mà Langdon gọi là "Louvre thu nhỏ" - một cuộc chạy nước rút qua bảo tàng để ngắm ba kiệt tác nổi tiếng nhất: Nàng Mona Lisa, Thần Vệ nữ Milo, Thần chiến thắng có cánh. Art Buchard từng khoe khoang rằng ông ta đã xem cả ba kiệt tác đó trong vòng năm phút năm mươi sáu giây.

Người lái xe lôi ra chiếc máy bộ đàm cầm tay và nói bằng tiếng Pháp rất nhanh: "Monsieur Langdon esl arrivé. Deux ". (5)

Đáp lại là một câu xác nhận lạo xạo nghe không rõ.

Viên cảnh sát cất máy, quay sang Langdon: "Ông sẽ gặp capitaine ở lối vào chính".

Người lái xe không đếm xỉa đến những biển báo cấm ô-tô đi trên plaza, cứ rồ ga, và phóng chiếc Citroen qua lề đường. Lối vào chính của bảo tàng Louvre bây giờ đã có thể nhìn thấy, sừng sững ở đằng xa, với bảy hồ nước hình tam giác bao quanh, từ đó vọt lên những vòi phun lung linh ánh sáng.

Kinh đô ánh sáng Lối vào mới của bảo tàng Louvre Paris cũng trở nên nổi tiếng gần như chính bảo tàng vậy. Kim tự tháp bằng kính theo lối hiện đại và gây nhiều tranh cãi do kiến trúc sư người Mỹ gốc Hoa I. M. Pei thiết kế vẫn còn bị các vị bảo vệ truyền thống bỉ báng, họ cảm thấy nó phá hủy vẻ trang nghiêm của cái sân theo phong cách Phục Hưng. Cloethe đã miêu tả kiến trúc như là âm nhạc ngưng đọng, và những người chỉ trích Pei miêu tả Kim tự tháp này như những móng tay trên cái bảng đen. Tuy nhiên, những người ngưỡng mộ tiến bộ, thì ca ngợi Kim tự tháp trong suốt cao 24 mét như một sự kết hợp gây sửng sốt giữa kiến trúc cổ điển và phương pháp hiện đại - một mối liên kết tượng trưng giữa cái cũ và cái mới - góp phần đưa bảo tàng Louvre vào thiên niên kỷ mới.

"Ông có thích Kim tự tháp của chúng tôi không?". Viên cảnh sát hỏi.

Langdon cau mày. Người Pháp có vẻ như thích hỏi người Mỹ câu hỏi này. Tất nhiên đó là một câu hỏi đầy hàm ý. Thừa nhận là mình thích cái Kim tự tháp đó sẽ biến bạn trở thành người Mỹ vô vị, còn nói không thích thì là một sự lăng mạ đối với người Pháp.

"Tổng thống Mitterrand là một người bạo gan", Langdon đáp đánh bài trung dung. "Người ta bảo vị cựu tổng thống Pháp người đã đặt làm Kim tự tháp này - bị mắc cái "mặc cảm Pharaông". Một mình gánh trách nhiệm làm cho Paris tràn ngập những bia tưởng niệm, nghệ thuật và đồ tạo tác Ai Cập, Francois Mitterrand mê thích văn hóa Ai Cập cuồng nhiệt đến nỗi người Pháp đến giờ vẫn còn gọi ông là Nhân Sư.

"Tên ông đại úy là gì nhỉ?", Langdon hỏi, chuyển đề tài.

"Bezu Fache", người lái xe nói, đi về phía lối vào chính của Kim tự tháp. "Chúng tôi gọi ông ấy là Bò mộng".

Langdon liếc nhìn anh ta, tự hỏi liệu có phải mỗi người Pháp đều có một biệt danh đặt theo tên các con vật huyền bí không:

"Ông gọi capitaine là Bò mộng sao?".

Người kia nhướn mày: "Tiếng Pháp của ông khá hơn là ông tự nhận đấy, thưa ông Langdon".

Tiếng Pháp của tôi rất tệ, Langdon nghĩ thầm, nhưng hiểu biết về các hình vẽ miêu tả cung hoàng đọo của tôi thì khá tốt. Chòm sao Taurus bao giờ cũng được tượng hình bằng con bò đực. Thuật chiêm tinh luôn là một hằng số tượng trưng khắp thế giới.

Viên cảnh sát dừng xe và chỉ giữa hai đài phun nước một cánh cửa lớn ở mé Kim tự tháp: "Đó là lối vào. Chúc may mắn, thưa quý ông".

"Ông không cùng đi sao?".

"Tôi được lệnh để ông lại đây. Tôi có nhiệm vụ khác để làm".

Langdon thở dài và ra khỏi xe. Đó là trò chơi của các ông mà.

Viên cảnh sát rồ ga và phóng đi.

Khi Langdon đứng một mình và nhìn những đèn hậu xe xa dần, ông nhận ra rằng ông có thể dễ dàng suy xét lại, rời khỏi cái sân này, bắt một chiếc taxi và đi thẳng về lên gi.ường đi ngủ.

Một điều gì đó nói với ông rằng đó là một ý chẳng hay ho gì.

Đi về phía đám sương của đài phun nước, Langdon có một cảm giác lo lắng như thể ông đang bước qua một cái ngưỡng ảo để vào một thế giới khác. Cái tính chất như mơ của buổi tối nay lại vây lấy ông. Hai mươi phút trước ông đang ngủ trong phòng khách sạn. Giờ đây ông đang đứng trước một Kim tự tháp trong suốt do Nhân Sư xây nên, chờ một tay cảnh sát mà người ta gọi là Bò mộng.

Mình bị mắc kẹt trong một bức calvador Dali (6) , ông nghĩ.

Langdon đi thẳng tới lối vào chính - một cánh cửa quay đồ sộ. Phòng chờ bên ngoài sáng lờ mờ và vắng vẻ.

Mình có phải gõ cửa không nhỉ?

Langdon tự hỏi không biết đã có nhà Ai Cập học tôn kính nào của Harvard gõ cửa một Kim tự tháp và chớ đợi sự đáp lại chưa. Ông giơ tay toan đập vào tấm kính, nhưng từ trong bóng tối phía dưới, một người đã xuất hiện, chạy lên chiếc cầu thang cong. Người chắc nịch và da sậm, gần giống như người Neanderthal, mặc chiếc áo vét cài chéo màu tối căng ra ôm chặt lấy đôi vai rộng. Dáng đi của ông ta trên đôi chân mập lùn, lực lưỡng rõ ra là người có uy quyền. Ông ta đang nói chuyện điện thoại di động nhưng kết thúc cuộc gọi ngay khi tới nơi. Ông ra hiệu mười Langdon vào.

"Tôi là Bezu Fache", ông ta tuyên bố khi Langdon qua cánh cửa quay, "Đại uý của Cục Cảnh sát tư pháp trung ương". Giọng ông ta thật phù hợp - một thứ âm cổ họng ì ầm… như trời sắp có giông.

Langdon giơ tay ra bắt: "Robert Langdon".

Bàn tay kếch xù của Fache bao lấy tay Langdon với sức mạnh như nghiền nát.

"Tôi đã xem tấm ảnh", Langdon nói. "Nhân viên của ông nói rằng Jacques Saunière đã làm việc đó…".

"Ông Langdon", đôi mắt đen như gỗ mun của Fache nhìn như xoáy vào d.a thịt, "Điều ông nhìn thấy trong ảnh chỉ là khởi đầu của những gì ông Saunière đã làm".

Chú thích:

(1) Viên cảnh sát nói "mounted her". Động từ "to mount"ngoài nghĩa trèo lên còn có nghĩa tục chỉ sự ăn nằm với đàn bà. Trong tiếng Anh, để chỉ con vật hoặc đồ vật ở số ít, thông thưởng người ta dùng đại từ trung tính it, nhưng thảng hoặc, đối với súc vật hay đồ vật thân thiết, đôi khi người ta dùng đại từ giống cái số ít her để tỏ ý âu yếm. Câu nói của viên cảnh sát nằm trong trường hợp này. Vì Langdon đang nghĩ tới Vittoria, người tình của mình, nên rất có thể hiểu chữ "mounted" theo nghĩa tục. Khi dịch sang tiếng Việt, hầu như không thể chuyển tál được nét tinh tế ngôn ngữ này.

(2) Một trong những họa sĩ cha đẻ của chủ nghĩa ấn tượng Pháp.

(3) Bãi trống rộng, quảng trường.

(4) Trong nguyên bản là một triệu feet vuông (hệ đo lường Anh). chúng tôi chuyển sang hệ mét quen thuộc với độc giả Việt nam hơn, để dễ hình dung hơn. Sau đây, chúng tôi cũng sẽ làm thế với những chỗ dùng đơn vị đo lường Anh.

(5) Ông Langdon đã tới. Hai phút.

(6) Hoạ sĩ siêu thực nổi tiếng của Tây Ban Nha (1904 - 1988)