Hướng dẫn phân tích “thiên đô chiếu” ngữ văn lớp 8 hay nhất. Lịch sử nước nhà đã ghi lại những lần đất nước rời kinh đô ra những vùng đất mới. Những quyết định dời đo luôn quan trọng với vận mệnh nước nhà. Bởi kinh đô phải đặt ở những nơi giao thoa văn hoa, nơi nhân dân dễ dàng lập nghiệp, nơi con người sống hạnh phúc ấm no không lo thiên tai lũ lụt. Vì vậy quyết định đưa kinh thành đến đâu là sự quyết định mang tính lịch sử vì đó còn là bộ mặt của đất nước để xứng đáng với các nước láng giềng. Trung Hoa có kinh đô đồ sộ, có vùng đất thuận lợi, màu mỡ, cho dân an lành sinh sống. Đại Việt ta không thể thua kém, chúng ta cũng cần có vùng đất đặt kinh thành phù hợp. Vậy nên, Lí Công Uẩn khi viết “Chiếu dời đô” đã nghĩ đến nhiều vấn đề như thế. Muốn hiểu được bài Chiếu ta phải hiểu được lịch sử nước nhà vào năm 1010, hiểu được lí do phải chuyển dời kinh đô và lí do chọn Đại La làm vùng đất làm kinh đô. Dưới đây là bài viết hướng dẫn Phân tích Thiên đô chiếu.
Bài làm 1 Phân tích Thiên đô chiếu
Lí Công Uẩn được biết đến là một vị vua anh minh, sáng suốt và luôn một lòng lo nghĩ cho dân, cho cuộc sống của nhân dân. Vì lo cho cuộc sống an lành, hạnh phúc của dân mà ông đã suy nghĩ và quyết định dời đô để cuộc sống nhân dân không còn vất vả, túng thiếu. Đó cũng là căn nguyên ra đời của “Thiên đô chiếu” – “Chiếu dời đô”.
Mở đầu bài Chiếu, Lí Công Uẩn đưa ra nguyên nhân dời đô. Nhà vua đưa ra dẫn chứng từ lịch sử. “nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần dời đô; nhà Chu đến vua Thành Vương cũng ba lần dời đô” , “đất nước thịnh vượng”. Theo sử sách ngày xưa các vưa nhiêù lần dời đô để phát triển đất nước vững bền thịnh vượng: “Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh”. Lí Công Uẩn mượn chuyện xưa đề cập đến chuyện nay, làm tiền đề, làm chỗ dựa cho lí lẽ. Nhưng soi vào hiện trạng đất nước ngày nay“Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời, không noi theo dấu cũ của Thương, Chu, cứ đóng yên đô thành ở nơi đây, khiến cho triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tốn, muôn vật không được thích nghi. Trẫm thấy đau xót về việc đó, không thể không dời đổi.” Bằng thủ pháp so sánh đối chiếu, dẫn chứng toàn diện, tiêu biểu lập luận thấu tình đạt lý từ đó nêu lên ý nghĩa quan trọng của việc dời đô đến vận mệnh đất nước, cuộc sống hạnh phúc của trăm dân. Dời đô cũng là một cách thể hiện thực lực của nước ta lớn mạnh, ý chí nước ta tự cường.
Sau khi nêu lí do dời đô, vua tiếp tục đưa ra giải thích vì sao chọn Đại La làm kinh đô mới. “Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương, ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh” Về mặt lịch sử, đây là nơi xưa “Cao Vương đóng đô”. Về mặt địa lý thì Đại La là trung tâm, có núi có sông, có địa hình bằng phẳng cao thoáng. Trong tâm có núi, có sông, đất rộng, cao thoáng, tránh được thiên tai. Về vị trí địa lí, văn hoá, chính trị Đại La là đầu mối giao lưu, nơi hội tụ trọng yếu. Muôn vật rất mực phong phú tốt tươi. Với lập luận chặt chẽ, dẫn chứng cụ thể, thuyết phục bằng câu văn biền ngẫu, tác giả muốn khẳng định Đại La là thắng địa phù hợp với việc định đô lâu dài: “ Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.” Câu hỏi của Lí Công Uẩn “Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?” cho thấy ông không chỉ là vị vua tài giỏi mà còn là người rất trọng ý kiến quần thân, nhân dân. Câu hỏi chứng tỏ sự quan tâm chu đáo của một vị vua anh minh, sáng suốt.
Căn cứ vào tình hình thực tế , Lí Công Uẩn chỉ ra vị thế của Hoa Lư ,của Đại Việt về địa lí, phong thủy, chính trị, về sự sống muôn loài để từ đó ,chỉ ra được ưu thế của thành Đại La là " kinh thành bậc nhất của đế vương muôn đời", ban bố về việc dời đô từ Hoa Lư ra thành Thăng Long -một sự kiện lịch sử trọng đại đối với đất nước ta. Cách lập luận logic, lờ văn dễ hiểu, gần gũi giúp cho bài chiếu không khô khan, không xa lạ với người nghe. Qua đó thấy được “Chiếu dời đô” thể hiện tâm nhìn về sự phát triển quốc gia Đại Việt, khát vọng độc lập ,thống nhất của một dân tộc có ý thức ,có truyền thống tự cường.
BÀI LÀM 1: PHÂN TÍCH “THIÊN ĐÔ CHIẾU”
Mỗi khi đất nước lâm nguy thì hang vạn chiếu các nhà vua được ban xuống để đến giờ vẫn có giá trị như một tác phẩm nghệ thuật mẫu mực của nền văn học Việt Nam. Cùng với Chiếu cầu hiền của vua Quang Trung thì chúng ta còn được biết đến Chiếu dời dô của vua Lý Công Uẩn. Bài chiếu không chỉ có ý nghĩa về mặt lịch sử mà nó còn mang nhiều nét văn học trong đó. Lý Công Uẩn nổi tiếng là một nhà vua thồn minh nhân ái có trí lớn và lập được nhiều chiến công hiển hách. Khi vua Lê Ngọa Triều bang hà, ông được triều thần tôn lên làm vua, xưng là Lí Thái Tổ viết bài chiếu bày tỏ ý định dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La ( Hà Nội ngày nay).
Tương truyền khi thuyền nhà vua đến đoạn sông dưới chân thành thì chợt thấy có rồng vàng bay lên. Cho là điềm làng, Lý Thái Tổ nhân đó đổi tên Đại La thành Thăng Long.
Chiếu là một loại văn bản cổ, nội dung thông báo một quyết định hay một mệnh ;ệnh nào đó cảu vua chúa cho thần dân biết. Chiếu thường thể hiện một tư tương lớn lao có ảnh hưởng đến vận mệnh triều đại, đất nước. Chiếu dời đô cũng mang đầy đủ đặc điểm trên nhưng bên cạnh đó cũng có những nét riêng. Ngôn ngữ bài chiếu vừa là ngôn ngữ hành chính vừa là ngôn ngữ đối thoại. Cũng như chế và biểu, chiếu được viết bằng tản văn, chữ hán gọi là cổ thể; từ đời Đường (Trung Hoa) mới theo lối tứ lục được gọi là cận thể (thể gần đây).
Trước hết tác giả nêu lên những dẫn chứng, những cơ sở để làm tiền đề cho việc dời đô của mình. Từ cổ chí kim việc dời đô là một việc làm thường xuyên của các nhà vua, cốt là để tìm cho hoàng cung một chỗ phong thủy hợp cho sự phát triển của đất nước, góp phần hung thịnh đất nước. Lý Công Uẩn dẫn ra hang loạt sự dời dô của các vị vua bên Trung Quốc trước đó. Xưa hà Thương đến vua Bàn Canh năm lần dời đô; nhà Chu đến vua Thành Vương cũng ba lần dời đô. Phải đâu các vua thời Tam đại theo ý riêng mình mà tự tiện chuyển dời? chỉ vì muốn đóng đô nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu; trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân nếu thấy thuận tiện thì thay đổi. Chi nên vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh. Có thể nói bằng những dẫn cứng trên tác giả lấy đó làm tiền đề vào câu mở đầu bài chiếu. Dời đô không phải là việc xấu từ xưa nó đã diễn ra thường xuyên. Mục đích của nóc ốt chỉ để làm việc mưu sinh thêm thuận lợi, bộ máy hành chính được đặt trung tâm của nước. Dời để hợp ý trời thuận lòng dân để từ đó đất nước phồn thịnh kéo dài.
Qua việc đưa ra những lí lẽ và dẫn chứng ấy tác giả khẳng định việc thay đổi kinh đô đới với triều đại nhà Lý là một tất yếu khách quan. Ý định dời đô của Lý Công Uẩn bắt nguồn từ thực tế lịch sử thể hiện ý chí mãnh liệt của nhà vua cũng nư cảu dân tộc ta hồi đó. Nhà vua muốn xây dựng và phát triển Đại Việt thành một quốc gia hùng mạnh trong tương lai.
Tiếp theo tác giả phân tích những thực tế cho thấy kinh đô cũ không còn thích hợp với sự mở mang đất nước nữa nên cần thiết phải dời đô. Ông không ngần ngại phê phán những triều đại cũ “ thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời, không noi theo dấu cũ của các nhà Thương, Chu cứ đóng yên dô thành ở nơi đây, khiến triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, tram họ phải hao tổn, muôn vật không được thích nghi. Trẫm rất đau xót về việc đó, không thể không dời đổi”. Tác giả nói rằng các triều đại nhà Đinh nhà lê đã không nghe theo ý trời mà chỉ đóng đô ở nơi đây nên triều đại không được lâu dài. Không biết học những cái thời xưa như nhà Thương, Chu. Vậy nên trái với khách quan thì sẽ bị tiêu vong, không theo quy luật thig không có kết quả tốt. Tóm lại kinh đô Đại Việt không thể phát triển được trong một quốc gia chật hẹp như thế. Nhưng thực chết thì ở giai đoạn đó hai triều đại chưa đủ mạng để tiến hành việc dời đô ra vùng đồng bằng trống trải. Nhưng thời Lí trên đà mở mang phát triển đất nước thì việc đóng đô Hoa Lư không phù họp nữa. Bên cạnh những dẫn chứng thuyết phục như thế tác giả thể hiện tình cảm của mình. Điều đó làm tăng tính thuyết phục cho bài chiếu.
Sau đó nhà vua chứng minh và khẳng định dự đúng đắn và hợp quy luật và phù hợp việc dời dô. Đại La là một nơi có tất cả các điều kiện để phát triển đất nước: “Huống gì thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương: ở vào nơi trung tâm trời đất….”. Đại La hiện lên đẹp về mọi mặt như địa lí, văn hóa đầu mới giao lưu. Tác giả nhìn từ góc nhìn của nhà phong thủy, cho thấy tất cả điều kiện tốt đẹp để đóng đô nơi đây. Chứng cớ nhà vua đưa ra có sức thuyết phục rất lớn vì được cân nhắc kĩ lưỡng trên nhiều lĩnh vực. có thể nói đây là mảnh đất lí tưởng cho kinh đô và với những điều kiện ấy triều đại sẽ phát triển hung thịnh. Nhà vua tự cho rằng xem cả dải đất nước Đại Việt thì chỉ có mỗi nơi đây là thánh đại. Có thể hiểu thánh địa là nơi đất đai đại hình tốt đẹp với sự phát triển mạnh mẽ.
Kết thúc bài chiếu nhà vua không dùng sức mạnh uy quyền để quyết định vấn đề mà dụng giọng tham khảo ý kiến của nhân dân, bề tôi trung tín: “ Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ. Các khanh nghĩ thế nào?”. Đó như thể hiện sự dân chủ và công bằng cho tất cả bề dưới, quyền quyết định đương nhiên thuộc về nhà vua nhưng ông vẫn muốn hỏi ý kiến dưới để thấy sự đồng lòng với người dân. Vì chỉ có hợp lòng dân thì vua cũng như đất nước mới vững bền được.
Như vậy Lý Công uẩn là một vị vua thông minh, nhân ái hiền từ và rất đổi hợp lòng dân. Ông không chỉ thấy những thực tế dẫn chứng từ các triều đại trước cũng như sự tốt đẹp của địa hình Đại la mà ông còn đánh vào tình cảm để thuyết phục. tuy là một bài chiếu có ý nghĩa ban bố mệnh lệnh nhưng chiếu dời đô của Lý Công Uẩn rất có sức thuyết phục bởi nó hợp lẽ trời, lòng dân. Tác giả sử dụng hệ thống lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, giọng điệu mạnh mẽ để thuyết phục dân chúng tin và ủng hộ quyết định của mình.
Bài làm 1 Phân tích Thiên đô chiếu
Lí Công Uẩn được biết đến là một vị vua anh minh, sáng suốt và luôn một lòng lo nghĩ cho dân, cho cuộc sống của nhân dân. Vì lo cho cuộc sống an lành, hạnh phúc của dân mà ông đã suy nghĩ và quyết định dời đô để cuộc sống nhân dân không còn vất vả, túng thiếu. Đó cũng là căn nguyên ra đời của “Thiên đô chiếu” – “Chiếu dời đô”.
Mở đầu bài Chiếu, Lí Công Uẩn đưa ra nguyên nhân dời đô. Nhà vua đưa ra dẫn chứng từ lịch sử. “nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần dời đô; nhà Chu đến vua Thành Vương cũng ba lần dời đô” , “đất nước thịnh vượng”. Theo sử sách ngày xưa các vưa nhiêù lần dời đô để phát triển đất nước vững bền thịnh vượng: “Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh”. Lí Công Uẩn mượn chuyện xưa đề cập đến chuyện nay, làm tiền đề, làm chỗ dựa cho lí lẽ. Nhưng soi vào hiện trạng đất nước ngày nay“Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời, không noi theo dấu cũ của Thương, Chu, cứ đóng yên đô thành ở nơi đây, khiến cho triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tốn, muôn vật không được thích nghi. Trẫm thấy đau xót về việc đó, không thể không dời đổi.” Bằng thủ pháp so sánh đối chiếu, dẫn chứng toàn diện, tiêu biểu lập luận thấu tình đạt lý từ đó nêu lên ý nghĩa quan trọng của việc dời đô đến vận mệnh đất nước, cuộc sống hạnh phúc của trăm dân. Dời đô cũng là một cách thể hiện thực lực của nước ta lớn mạnh, ý chí nước ta tự cường.
Sau khi nêu lí do dời đô, vua tiếp tục đưa ra giải thích vì sao chọn Đại La làm kinh đô mới. “Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương, ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh” Về mặt lịch sử, đây là nơi xưa “Cao Vương đóng đô”. Về mặt địa lý thì Đại La là trung tâm, có núi có sông, có địa hình bằng phẳng cao thoáng. Trong tâm có núi, có sông, đất rộng, cao thoáng, tránh được thiên tai. Về vị trí địa lí, văn hoá, chính trị Đại La là đầu mối giao lưu, nơi hội tụ trọng yếu. Muôn vật rất mực phong phú tốt tươi. Với lập luận chặt chẽ, dẫn chứng cụ thể, thuyết phục bằng câu văn biền ngẫu, tác giả muốn khẳng định Đại La là thắng địa phù hợp với việc định đô lâu dài: “ Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.” Câu hỏi của Lí Công Uẩn “Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?” cho thấy ông không chỉ là vị vua tài giỏi mà còn là người rất trọng ý kiến quần thân, nhân dân. Câu hỏi chứng tỏ sự quan tâm chu đáo của một vị vua anh minh, sáng suốt.
Căn cứ vào tình hình thực tế , Lí Công Uẩn chỉ ra vị thế của Hoa Lư ,của Đại Việt về địa lí, phong thủy, chính trị, về sự sống muôn loài để từ đó ,chỉ ra được ưu thế của thành Đại La là " kinh thành bậc nhất của đế vương muôn đời", ban bố về việc dời đô từ Hoa Lư ra thành Thăng Long -một sự kiện lịch sử trọng đại đối với đất nước ta. Cách lập luận logic, lờ văn dễ hiểu, gần gũi giúp cho bài chiếu không khô khan, không xa lạ với người nghe. Qua đó thấy được “Chiếu dời đô” thể hiện tâm nhìn về sự phát triển quốc gia Đại Việt, khát vọng độc lập ,thống nhất của một dân tộc có ý thức ,có truyền thống tự cường.
BÀI LÀM 1: PHÂN TÍCH “THIÊN ĐÔ CHIẾU”
Mỗi khi đất nước lâm nguy thì hang vạn chiếu các nhà vua được ban xuống để đến giờ vẫn có giá trị như một tác phẩm nghệ thuật mẫu mực của nền văn học Việt Nam. Cùng với Chiếu cầu hiền của vua Quang Trung thì chúng ta còn được biết đến Chiếu dời dô của vua Lý Công Uẩn. Bài chiếu không chỉ có ý nghĩa về mặt lịch sử mà nó còn mang nhiều nét văn học trong đó. Lý Công Uẩn nổi tiếng là một nhà vua thồn minh nhân ái có trí lớn và lập được nhiều chiến công hiển hách. Khi vua Lê Ngọa Triều bang hà, ông được triều thần tôn lên làm vua, xưng là Lí Thái Tổ viết bài chiếu bày tỏ ý định dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La ( Hà Nội ngày nay).
Tương truyền khi thuyền nhà vua đến đoạn sông dưới chân thành thì chợt thấy có rồng vàng bay lên. Cho là điềm làng, Lý Thái Tổ nhân đó đổi tên Đại La thành Thăng Long.
Chiếu là một loại văn bản cổ, nội dung thông báo một quyết định hay một mệnh ;ệnh nào đó cảu vua chúa cho thần dân biết. Chiếu thường thể hiện một tư tương lớn lao có ảnh hưởng đến vận mệnh triều đại, đất nước. Chiếu dời đô cũng mang đầy đủ đặc điểm trên nhưng bên cạnh đó cũng có những nét riêng. Ngôn ngữ bài chiếu vừa là ngôn ngữ hành chính vừa là ngôn ngữ đối thoại. Cũng như chế và biểu, chiếu được viết bằng tản văn, chữ hán gọi là cổ thể; từ đời Đường (Trung Hoa) mới theo lối tứ lục được gọi là cận thể (thể gần đây).
Trước hết tác giả nêu lên những dẫn chứng, những cơ sở để làm tiền đề cho việc dời đô của mình. Từ cổ chí kim việc dời đô là một việc làm thường xuyên của các nhà vua, cốt là để tìm cho hoàng cung một chỗ phong thủy hợp cho sự phát triển của đất nước, góp phần hung thịnh đất nước. Lý Công Uẩn dẫn ra hang loạt sự dời dô của các vị vua bên Trung Quốc trước đó. Xưa hà Thương đến vua Bàn Canh năm lần dời đô; nhà Chu đến vua Thành Vương cũng ba lần dời đô. Phải đâu các vua thời Tam đại theo ý riêng mình mà tự tiện chuyển dời? chỉ vì muốn đóng đô nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu; trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân nếu thấy thuận tiện thì thay đổi. Chi nên vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh. Có thể nói bằng những dẫn cứng trên tác giả lấy đó làm tiền đề vào câu mở đầu bài chiếu. Dời đô không phải là việc xấu từ xưa nó đã diễn ra thường xuyên. Mục đích của nóc ốt chỉ để làm việc mưu sinh thêm thuận lợi, bộ máy hành chính được đặt trung tâm của nước. Dời để hợp ý trời thuận lòng dân để từ đó đất nước phồn thịnh kéo dài.
Qua việc đưa ra những lí lẽ và dẫn chứng ấy tác giả khẳng định việc thay đổi kinh đô đới với triều đại nhà Lý là một tất yếu khách quan. Ý định dời đô của Lý Công Uẩn bắt nguồn từ thực tế lịch sử thể hiện ý chí mãnh liệt của nhà vua cũng nư cảu dân tộc ta hồi đó. Nhà vua muốn xây dựng và phát triển Đại Việt thành một quốc gia hùng mạnh trong tương lai.
Tiếp theo tác giả phân tích những thực tế cho thấy kinh đô cũ không còn thích hợp với sự mở mang đất nước nữa nên cần thiết phải dời đô. Ông không ngần ngại phê phán những triều đại cũ “ thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời, không noi theo dấu cũ của các nhà Thương, Chu cứ đóng yên dô thành ở nơi đây, khiến triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, tram họ phải hao tổn, muôn vật không được thích nghi. Trẫm rất đau xót về việc đó, không thể không dời đổi”. Tác giả nói rằng các triều đại nhà Đinh nhà lê đã không nghe theo ý trời mà chỉ đóng đô ở nơi đây nên triều đại không được lâu dài. Không biết học những cái thời xưa như nhà Thương, Chu. Vậy nên trái với khách quan thì sẽ bị tiêu vong, không theo quy luật thig không có kết quả tốt. Tóm lại kinh đô Đại Việt không thể phát triển được trong một quốc gia chật hẹp như thế. Nhưng thực chết thì ở giai đoạn đó hai triều đại chưa đủ mạng để tiến hành việc dời đô ra vùng đồng bằng trống trải. Nhưng thời Lí trên đà mở mang phát triển đất nước thì việc đóng đô Hoa Lư không phù họp nữa. Bên cạnh những dẫn chứng thuyết phục như thế tác giả thể hiện tình cảm của mình. Điều đó làm tăng tính thuyết phục cho bài chiếu.
Sau đó nhà vua chứng minh và khẳng định dự đúng đắn và hợp quy luật và phù hợp việc dời dô. Đại La là một nơi có tất cả các điều kiện để phát triển đất nước: “Huống gì thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương: ở vào nơi trung tâm trời đất….”. Đại La hiện lên đẹp về mọi mặt như địa lí, văn hóa đầu mới giao lưu. Tác giả nhìn từ góc nhìn của nhà phong thủy, cho thấy tất cả điều kiện tốt đẹp để đóng đô nơi đây. Chứng cớ nhà vua đưa ra có sức thuyết phục rất lớn vì được cân nhắc kĩ lưỡng trên nhiều lĩnh vực. có thể nói đây là mảnh đất lí tưởng cho kinh đô và với những điều kiện ấy triều đại sẽ phát triển hung thịnh. Nhà vua tự cho rằng xem cả dải đất nước Đại Việt thì chỉ có mỗi nơi đây là thánh đại. Có thể hiểu thánh địa là nơi đất đai đại hình tốt đẹp với sự phát triển mạnh mẽ.
Kết thúc bài chiếu nhà vua không dùng sức mạnh uy quyền để quyết định vấn đề mà dụng giọng tham khảo ý kiến của nhân dân, bề tôi trung tín: “ Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ. Các khanh nghĩ thế nào?”. Đó như thể hiện sự dân chủ và công bằng cho tất cả bề dưới, quyền quyết định đương nhiên thuộc về nhà vua nhưng ông vẫn muốn hỏi ý kiến dưới để thấy sự đồng lòng với người dân. Vì chỉ có hợp lòng dân thì vua cũng như đất nước mới vững bền được.
Như vậy Lý Công uẩn là một vị vua thông minh, nhân ái hiền từ và rất đổi hợp lòng dân. Ông không chỉ thấy những thực tế dẫn chứng từ các triều đại trước cũng như sự tốt đẹp của địa hình Đại la mà ông còn đánh vào tình cảm để thuyết phục. tuy là một bài chiếu có ý nghĩa ban bố mệnh lệnh nhưng chiếu dời đô của Lý Công Uẩn rất có sức thuyết phục bởi nó hợp lẽ trời, lòng dân. Tác giả sử dụng hệ thống lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, giọng điệu mạnh mẽ để thuyết phục dân chúng tin và ủng hộ quyết định của mình.