Viết về đề tài người nông dân Việt Nam trước Cách mạng, mỗi nhà văn có cách khám phá khác nhau nhưng đều thống nhất ở chỗ họ là những con người hiền lành, chất phác, khát vọng sống và không ngừng tìm cách vươn lên. Tuy mỗi số phận một khác nhau, nhưng lúc nào họ cũng sống đầy lòng yêu thương. Nếu Nam Cao tìm thấy tình người quý báu trong nhân vật Lão Hạc (Lão Hạc) thì Kim Lân lại bắt gặp tấm lòng yêu nước, yêu làng thắm thiết của nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng.

Trước hết, cả hai tác giả đều tập trung làm bật nổi số phận, cuộc đời với hoàn cảnh éo le, khó khăn của người nông dân trước và sau Cách mạng tháng Tám. Đọc "Lão Hạc", người đọc sẽ thấy hình ảnh lão Hạc với một hoàn cảnh bất hạnh và đáng thương. Có lẽ, cũng như bao người nông dân khác trước cách mạng tháng Tám, lão Hạc phải sống trong sự cơ cực, nghèo đói, vất vả với biết bao nhọc nhằn, lo toan với cuộc sống mưu sinh. Nhưng có lẽ, lão Hạc bất hạnh hơn nhiều so với những người khác bởi lẽ vợ lão chết sớm, lão sống trong cảnh gà trống nuôi con một mình, những mong hai bố con sẽ có những tháng ngày bình dị, ấm áp bên nhau. Nhưng rồi, con trai lão vì phẫn chí không có tiền cưới vợ đã bỏ đi đồn điền cao su, để lại mình lão với cậu Vàng và những tháng ngày tuổi già ốm đau, nghèo đói. Và rồi, đến một ngày, khi cái cơ cực đã tới đường cùng, lão không còn cách nào để cố gắng được nữa, lão đành bán cậu Vàng - người bạn của lão với niềm đau xót khôn nguôi. "Mặt lão co rúm lại, những nếp nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra, cái đầu nghẹo về một bên, cái miệng móm mém mếu như con nít", "lão hu hu khóc".. Và có lẽ, xót xa hơn cả đó là lão tự kết liễu đời mình với một cái chết đầy đau đớn và thương tâm khiến ai nấy đều bàng hoàng - lão chết bằng cách ăn bả chó. Với những chi tiết trên đây có thể giúp chúng ta cảm nhận được hoàn cảnh éo le và số phận đầy bất hạnh của lão Hạc.

Lão Hạc có thể nói, mang trong mình một tâm hồn thiện lương hiếm có, cũng là vẻ đẹp của cả một giai cấp. Giữa cuộc đời khốn khổ, lão Hạc vẫn ý thức được nhân phẩm của mình. Lòng tự trọng của một người cha không cho phép lão tiêu vào mảnh vườn do người mẹ để lại cho đứa con. Lòng tự trọng của một con người không cho phép lão nhận sự giúp đỡ của ông giáo mà lão biết cũng chẳng sướng gì hơn lão, càng không cho phép lão làm phiền lụy đến bà con lối xóm. Lão biết họ đã khốn khổ lắm rồi, lão không thể là gánh nặng cho họ. Ý thức được điều đó một cách sâu sắc, Lão Hạc đã nhịn ăn để dành tiền làm ma cho mình. Thật là một tấm lòng cao thượng và vị tha hiếm có! Ta nhận thấy ở lão Hạc một triết lí sống giản dị nhưng đẹp biết nhường nào.

Sự lương thiện của lão Hạc được thể hiện rõ nhất khi ông buộc phải bán con chó, sự dằn vặt khi phải bán nó đi tựa như lưỡi dao sắc bén nhất đâm nát trái tim vốn đã rất yếu ớt của lão. Lão Hạc lương thiện đến mức ông cảm thấy có lỗi với một con vật tưởng không có cảm xúc. Lão thà chết chứ không bán linh hồn mình cho quỷ dữ. Cuối cùng lão đã chọn cái chết để giữ trọn sự trong sạch và lương thiện trong tâm hồn mình. Một cách sống và xử thế thật đáng trân trọng

Giữa thế sự ngổn ngang, biết bao con người đã bị tha hóa, lầm lạc, lão Hạc vẫn biết giữ cho mình một lối sống trong sạch, thiện lương sáng ngời. Số phận bi kịch của lão Hạc có sự tương đồng với bi kịch của những người nông dân khác. Đó là bi kịch của số phận bất hạnh, xã hội thời bấy giờ không chứa được những con người nhỏ bé, không quyền không thế, không cả tiền; bi kịch của sự thiện lương khi xã hội ấy cũng không chấp nhận những con người lương thiện quá, nó yêu cầu con người ta gạt bỏ lòng tự trọng, tự tôn để mà sống. Những người nông dân đi ngược với xu thế ấy đều bị đào thải. Đau lòng thay!

Cái chết của lão Hạc vô cùng ám ảnh, nó là hình ảnh chân thực nhất cho giai cấp nông dân thời bấy giờ, bị dồn vào đường cùng không lối thoát. Đồng thời cũng là lời chia buồn sâu sắc cho những con người thiện lương buộc lòng phải chấm dứt cuộc sống của chính mình vì không thể độc ác. Tác phẩm đã đặt người nông dân vào tận cùng của sự đau khổ, không bao giờ nửa vời, đã đau thì phải đau đến tận cùng, đã tha hóa thì phải hơn cả quỷ dữ.

Qua truyện ngắn Lão Hạc, ta có thể thấy được phẩm chất quý giá của một người nông dân trước Cách mạng tháng 8 là hiền lành, tự trọng, chất phác và giàu lòng nhân hậu. Song, sau Cách mạng tháng 8, ta vẫn bắt gặp những người nông dân có phẩm chất tốt đẹp như lão Hạc ở khắp nơi điển hình như là nhân vật Ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân.

Truyện ngắn "Làng" của Kim Lân được viết vào những ngày đầu cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta. Ông Hai - nhân vật chính trong truyện là một người nông dân tuy bình thường như bao người khác nhưng kinh có một tình yêu làng, yêu nước. Tình yêu làng ở ông có những nét đặc sắc, riêng biệt, được thể hiện thành một cá tính đáng quý.

Ông Hai yêu nước và tự hào về làng Dầu nơi "chôn nhau, cắt rốn", nơi "quê cha đất tổ" của ông. Tình cảm ấy thể hiện trước hết ở cái tính hay khoe về làng, lấy làm hãnh diện về làng của mình.

Trước cách mạng, mỗi bận đi đâu xa ông thường khoe cái sinh phần của viên tổng đốc làng ông hoặc khi có khách bên họ ngoại ở dưới tỉnh Nam lên chơi, thế nào ông cũng dắt ra xem lăng cụ Thượng cho kì được.. Ông có vẻ hãnh diện cho làng có được cái sinh phần ấy lắm. "Chết! Chết, tôi chưa thấy cái dinh cơ nào mà lại được như cái dinh cụ Thượng làng tôi. Có lắm lắm là của. Vườn hoa cây cảnh nom như động ấy!.."

Về sau, cách mạng đã giúp ông thay đổi nhận thức, hiểu được sự lầm lẫn của mình. Tuy nhiên, ẩn sau sự lầm lẫn ấy ta cũng thấy rõ tình cảm tự hào của ông đối với làng. Cho nên khi nhận ra những giá trị chân chính của làng thì niềm tự hào ở ông càng trở nên lớn lao.

Từ ngày cách mạng thành công, khoe làng, ông khoe cái khí thế dồn dập, hào hùng thời kì khởi nghĩa: Trẻ, già, trai, gái tham gia cướp chính quyền, tập tự vệ, đào hào, đắp ụ chuẩn bị chống Pháp.

Ông khoe làng ông có cái phòng thông tin thoáng mát nhất cùng cái chòi phát thanh cao, chiều chiều phát loa gọi cả làng đều nghe thấy.

Mỗi lần kể chuyện về làng, ông nói một cách say sưa và háo nức lạ thường, hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mặt biến chuyển, sinh động. Tóm lại ở ông, khoe làng đã thành một cái tật, một thứ nghiện. Ông nói về làng ông "cho sướng miệng, cho đỡ cái nhớ làng". Ta hiểu đằng sau cái "tật" đó chính là tấm lòng chân thật gắn bó của ông với làng, là niềm tự hào chân chính của ông về quê hương.

Ông Hai say sưa kể những thành tích của làng và càng say sưa hơn khi những thành tích đó có phần đóng góp của ông. Ông tự hào nhớ lại thuở ông "gia nhập phong trào từ thời kì còn bóng tối", "vác gậy đi tập một, hai". Khi dân làng tản cư, ông ở lại "cùng anh em đi đào đường, đắp ụ", công việc bộn bề, ông mải mê làm "chẳng còn kịp nghĩ gì đến vợ con nhà cửa nữa". Vì ông yêu mến cái làng nên mọi nỗi khổ đau hay niềm vui sướng đều gắn bó với cái làng quê yêu dấu đó.

Khi bất đắc dĩ phải tản cư vì chiến tranh, ông buồn khổ lắm, tiếc nhất là không được góp phần gánh vác công việc chung cùng những người ở lại.

Khi gặp người tản cư ở dưới xuôi lên, đưa tin giặc càn vào làng Dầu, cả làng làm Việt gian, ông đau xót quá "cổ ông nghẹn đắng lại, da mặt tê rần rần. Ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được". Ông ngượng, không dám nói chuyện với người đàn bà tản cư và tìm cách lảng tránh. Quay trở về, ông phải cúi gầm mặt xuống mà đi, về đến nhà, ông nằm vật ra giường không dám ló mặt ra khỏi nhà. Ông buồn. Ông xấu hổ. Ông tự tranh luận với mình, tự dằn vặt mình rồi đâm cáu gắt với con. Nhiều lúc nước mắt ông lão cứ trào ra. Đêm đến ông Hai trằn trọc không sao ngủ được. Ông hết trở mình bên này lại trở mình bên kia, thở dài. Có lúc ông lão lặng hẳn đi, chân tay nhũn ra, tưởng chừng như không cất lên được. Tiếng đồn loang ra, cả gia đình ông vô cùng buồn khổ. Ông càng đau xót. Niềm tin nỗi ngờ giằng xé lòng ông "chả lẽ cái bọn ở làng lại đổ đốn đến thế được! Ông kiểm điểm từng người trong óc. Không mà, họ toàn là những người có tinh thần cả mà. Họ đã ở lại làng quyết tâm một sống một chết với giặc có đời nào lại cam tâm làm điều nhục nhã ấy".

Có lúc ông nghĩ: "Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù". Những lúc buồn khổ quá ông chỉ biết ôm con vào lòng than thở cùng con "như để ngỏ lòng mình, như để mình lại minh oan cho mình nữa". "Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông".

Có lẽ đây là lần mà nỗi đau về làng đến với ông một cách tê tái nhất, quằn quại nhất. Suốt ngày đêm ông day dứt, lòng dạ bồi hồi. Đến khi ông chủ tịch ở dưới quê lên cải chính tin đồn, ông như mở cờ trong bụng. Mua quà chia cho các con. Lật đật đi báo tin với mọi người, đi cải chính cho mọi người. Bây giờ chính ông lại rất vui, rất tự hào khi nghe tin nhà mình bị giặc đốt. "Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn! Ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính.. cải chính tin làng chợ Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả!"

Cũng chỉ được bằng ấy câu ông Hai lại chạy vội đi nơi khác để loan tin vui. Tối ông lại khoe về làng. Ông kể lại hôm Tây vào khủng bốlàng ông chúng nó có bao nhiêu thằng đi những lối nào, dân quân tự vệ làng ông chiến đấu ra sao.. Ông kể rành rọt, tỉ mỉ như chính ông vừa dự trận đánh ấy xong.

Đây lại là những lúc ông Hai lấy làm vinh dự về làng, tự hào về làng quê mình anh dũng phá càn thắng giặc.

Ông Hai là người gắn bó tha thiết với quê hương. Vì yêu quê hương nên ông yêu nước, kính yêu Cụ Hồ, ông hăng hái tham gia kháng chiến.

Ông Hai là hình ảnh của những người nông dân bình thường nhưng giàu lòng yêu nước, một mẫu người rất đáng quý của dân tộc ta trong những năm trường kì kháng chiến chông thực dân Pháp.

Truyện ngắn "Làng" và "Lão Hạc" đã khắc họa rõ nét về hình ảnh chung của người nông dân trước và sau Cách mạng tháng 8. Tuy nhiên, mỗi tác phẩm lại mang trong mình một màu sắc riêng, một tư tưởng, một số phận khác nhau.

Truyện "Lão Hạc" của Nam Cao viết về người nông dân ở xã hội phong kiến cũ, đăng báo lần đầu năm 1943, ra đời trong lúc xã hội là thực dân phong kiến, Người dân phai chịu nhiều áp bức, bóc lột. Lão Hạc khi còn sức lực thì cầy thuê, cuốc mướn tự nuôi thân mình. Chưa bao giờ lão làm phiền một ai. Khi già yếu, lão vẫn gắng gượng, đem chút hơi tàn còn lại để kiếm sống. Họ là những người giàu lòng nhân ái. Họ còn có phẩm chất cao cả, lương tâm trong sạch.

Đến với truyện ngắn "Làng" được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, đăng lần đầu trên tạp chí Văn nghệ năm 1948, ra đời vào lúc người nông dân được giải phóng khỏi áp bức, tham gia vào công cuộc cách mạng tự giác. Ông Hai may mắn hơn Lão Hạc đó là ông còn có gia đình. Lúc còn ở làng, ông chăm chỉ làm ăn. Vợ ông cũng tảo tần buôn bán. Khi ở nơi tản cư, dù khó khăn nhưng ông cũng không chịu ngồi không bó gối. Ông tìm được mảnh đất, cần mẫn cuốc bới. Vừa làm việc, vừa trù tính cho tương lai một cách háo hức.

Ông Hai yêu làng một cách vô tư. Chính nó là nguồn sống trong trái tim ông. Từ tình yêu làng chuyển biến lên tình yêu nước, tình yêu cách mạng, tình yêu lãnh tụ. Sự chuyển biến tình cảm trong ông hai khẳng định, ở người nông dân hiền lành ấy có một trái tim trong sáng, một nhân cách cao đẹp, một tình thần yêu làng, yeu nước thiết tha. Nhân vật ông Hai trong truyện ngắn "Làng" của Kim Lân, một người nông dân thuần khiết như bao người nông dân Việt Nam khác mang trong mình tình yêu làng quê thật giản dị mà sâu sắc.

Cái nhìn chân thực về hình ảnh người nông dân trước cách mạng qua Lão Hạc (Nam Cao) và Làng (Kim Lân) đã nói lên vẻ đẹp của người nông dân Việt Nam ở hai thời kì đều mang những nét đẹp đặc trưng tiêu biểu cho truyền thống nông dân Việt nam. Đó là phẩm chất cần cù chịu khó, chăm chỉ lương thiện và giàu lòng nhân ái. Yêu nước, yêu quê hương (làng mình, mảnh vườn). Cả hai nhân vật ông Hai và lão Hạc đều là những nông dân nghèo, chưa có nhận thức đầy đủ về giai cấp trước Cách mạng. Họ đã đi theo Cách mạng, tham gia kháng chiến. Vẻ đẹp ấy càng đẹp hơn bao giờ hết là tình yêu làng, yêu nước gắn với Cách mạng và Kháng chiến. Họ đã không thỏa hiệp với kẻ thù, không đội trời chung với kẻ thù, không là Việt gian bán nước.

Thành công của tác giả lẫn hai tác phẩm là đều khắc họa được hình ảnh người nông dân cần cù lao động, chất phát, giàu tình thương đặc biệt là yêu quê hương - đất nước.

Tác giả: DNNY


____________________
cung cấp vòng bi timken, vòng bi ntn, vòng bi fag chính hãng